Các chuyên gia cho rằng pho tượng là một kiệt tác của nghệ thuật Ifugao, nổi bật bởi dáng vẻ nguyên sơ, thuần phác. Tính biểu tượng, cách điệu và trừu tượng cho nó gợi mối liên hệ họ hàng với những những hình tượng con người cổ xưa nhất cũng như hiện đại nhất, từ đó mang một sức mạnh và vẻ đẹp xuyên không - thời gian…
Tuy nhiên, giá trị cao kỷ lục của pho tượng này còn bắt nguồn từ nguồn gốc đặc biệt của nó.
Tượng thần lúa Ifugao (trái) và tượng mồ Gia Rai.
Người sưu tầm được pho tượng này là nhà nhân học Mỹ Henry Otley Beyer (1883-1966), là người đã dành 60 năm đời mình nghiên cứu, giảng dạy và truyền bá văn hóa bản địa Philippines. Ông được coi là “Người cha của ngành nhân học Philippines”; là “ Vị trưởng bối của các ngành dân tộc học, khảo cổ học, tiền sử học ở Philippines”.
Các nghiên cứu của ông về người Ifugao và các khu ruộng bậc thang của họ ở tỉnh Ifugao, đảo Luzon là một cơ sở cho UNESCO công nhận quần thể gồm 5 khu ruộng bậc thang ở đây là Di sản thế giới vào năm 1995.
Ông cũng chính là người đã đưa ra thuyết về làn sóng thiên di của những người đã mang theo nghề trồng lúa, rèn sắt, làm gốm từ Nam Trung Quốc và Đông Dương (khái niệm một thời chỉ chung ba nước Việt Nam-Lào-Campuchia) tới Philippines và vùng quần đảo Đông Nam Á cách đây khoảng 2.000-2.500 năm…
Là người yêu và hiểu sâu sắc văn hóa truyền thống Ifugao, ông đã sưu tầm được các truyền thuyết về nguồn gốc tượng thần lúa cũng như một số pho tượng thần lúa cổ và đẹp nhất của tộc người này. Ông đã có được pho tượng trên vào năm 1918, đúng năm vợ ông sinh người con trai duy nhất của ông, William, người đã được thừa kế pho tượng này… Mặt khác, giá trị của pho tượng còn bắt nguồn từ tính độc đáo và kỳ bí của các tín ngưỡng và phong tục liên quan.
Người Ifugao thờ tới 1.500 vị thần nhưng chỉ tạc và thờ cúng tượng thần lúa, là dạng tượng thiêng, biểu tượng cho tổ tiên hóa thần linh của người Ifugao. Với họ, thần lúa cũng là thần sinh sản - thần của cải - thần bảo hộ, là vị thần có vai trò trung tâm trong các nghi lễ cầu mong an khang thịnh vượng cho mỗi gia đình và cả cộng đồng. Họ gọi thần lúa là Bulul, vừa là từ chỉ linh hồn tổ tiên, vừa là từ chỉ vật mang linh hồn đó.
Theo truyền thống, người Ifugao thường đặt một cặp tượng nam-nữ thể hiện ông bà tổ hay vợ chồng thần lúa trong các kho thóc lúa nằm bên các thửa ruộng hay trên các gác xép nhà ở. Tượng nam đặt bên phải hay phía Đông và tượng nữ đặt bên trái hay phía Tây, ngồi gần nhau hoặc nắm tay nhau phản ánh quan hệ cân bằng hòa hợp Âm Dương trong một xã hội phụ hệ. Họ tin hai vị thần đó sẽ giúp họ bảo vệ thóc lúa khỏi ma ác, sâu bọ, trộm cắp và giúp mùa màng tươi tốt.
Có nơi, tượng thần lúa lại được thể hiện dưới dạng hình trâu hay gà trống, hai biểu tượng xa xưa hơn của nghề trồng lúa gắn với nước – mưa - mặt trăng và lửa - nắng - mặt trời... Các pho tượng cổ thường được đặt trên đế hình cối giã gạo lưng eo cách điệu, cũng là một biểu tượng của thần lúa với hai tư thế cơ bản: ngồi xổm hay bệt với hai tay khoanh trên đầu gối hoặc đứng với hai tay buông thõng. Một số tượng mang trong tay một chiếc bát lớn đựng đồ cúng.
Theo truyền thống xa xưa, các pho tượng cổ thường có đầu và mình trần với bộ phận giới tính hay một chiếc chày cho nam và một chiếc cối cho nữ. Thời sau này, đặc biệt trong các nghi lễ, một số tượng nam còn đội mũ làm bằng rơm, mặc khố, tượng nữ mặc váy quấn, tai đeo khuyên, cổ đeo chuỗi hạt cườm và chân đeo vòng. Có nơi tượng được phủ một lớp cơm nghiền trộn vôi tạo màu trắng như một cách nhấn mạnh vai trò của thần với nghề trồng lúa.
Người tạc tượng thường là các pháp sư, chủ làng hay nghệ nhân có tiếng tăm, uy tín, không chỉ có hiểu biết sâu về tín ngưỡng mà còn có tay nghề thiện nghệ, cẩn thận, tỉ mỉ. Quá trình tạo tượng, từ việc chọn cây, lấy gỗ, điêu khắc đều gắn với các nghi lễ trang trọng, trong đó lễ hô thần nhập tượng, tức lễ nhập linh hồn tổ tiên - thần lúa vào tượng là nghi lễ quan trọng nhất, có thể kéo dài tới 6 tuần. Trong lễ, pháp sư ngân nga các bài ca nói về nguồn gốc tượng. Sau lễ, tượng được đặt trong nhà của nghệ nhân cho đến lễ mừng lúa mới mới được đưa về nhà chủ, nơi chúng được dâng lên các lễ vật là rượu gạo, bánh gạo cùng máu của những con vật cúng.
Màu bóng đậm của các pho tượng đã được tạo từ máu của các con vật cúng cùng khói, mỡ của đồ cúng trong các nghi lễ gắn với chu kỳ trồng lúa… Do gắn với nhiều nghi lễ phức tạp, tốn kém, xưa chỉ các gia đình quí tộc mới có tượng thần lúa để truyền cho con cháu theo dòng trưởng. Cũng chỉ con cháu những gia đình đã có tượng thần lúa xưa mới được làm tượng mới.
Ngày nay, phần lớn tượng thần lúa Ifugao được tạo ra để bán cho các nhà sưu tầm và khách du lịch.
Tượng thần lúa Ifugao và tượng mồ Tây Nguyên
So sánh tượng thần lúa Igugao và tượng mồ của các tộc người lớn ở Tây Nguyên như Ba Na, Gia Rai, Ê Đê, có thể thấy những điểm tương đồng và khác biệt lý thú.
Dạng tượng mồ phổ biến nhất và cổ nhất ở Tây Nguyên, thường được dựng ở bốn góc hàng rào nhà mồ và ở chính giữa hàng rào phía Đông cũng có tư thế ngồi bệt, hai khuỷu tay chống đầu gối, hai bàn tay đỡ cằm (như đang ngẫm nghĩ, suy tư) hay ôm má (như đang buồn khổ khóc lóc) trông khá gần gũi với dạng tượng thần lúa Ifugao ngồi, nhưng hai tay lại khoanh trên đầu gối.
Các tượng mồ kiểu cổ cũng không có trang phục và để lộ bộ phận giới tính. Một số tượng cũng có đế hình cối lưng eo và ở tư thế hai tay dâng đĩa đồ cúng như tượng thần lúa Ifugao. Nhiều tượng mồ cũng được cúng bằng cách bôi máu các con vật cúng v.v... Những tượng đồng trên chủ yếu bắt nguồn từ cội nguồn văn hóa chung của người Ifugao và người Tây Nguyên, đặc biệt từ văn hóa Đông Sơn.
Tuy nhiên, các tộc người Tây Nguyên dù cũng rất coi trọng thần lúa và thờ cúng thần lúa, nhưng lại coi thần lúa là một phụ nữ và không có tộc người nào có cặp tượng gỗ thể hiện nam hay nữ thần lúa như người Ifugao. Cụ thể, người Ba Na coi thần lúa là vợ của thần sấm, có hiện thân là một con cóc thường ẩn mình ở các kho lúa hay hóa thành một bà già ghẻ lở đầy mình (tức có da sần sùi giống da cóc)…
Trong khi đó, tượng gỗ Tây Nguyên chủ yếu là tượng mồ được tạo ra trong lễ bỏ mả, hội lễ truyền thống lớn nhất, quan trọng và linh thiêng nhất trên vùng đất này. Thực chất, hội lễ đó là một biến thể của lễ cải táng nhưng bỏ đi việc thu gom xương người chết.
Về nguồn gốc và bản chất, tượng mồ vốn là các biểu tượng thiêng, thể hiện các con vật tổ, tổ tiên hay thần linh về đưa đón, che chở, bảo vệ hồn người chết trên đường về thế giới bên kia.
Tuy nhiên, sau này, các tộc người Tây Nguyên lại coi tượng mồ là món quà của người sống tặng người chết, là tượng thể hiện người chết và cuộc sống của gia đình họ khi họ còn sống… Từ đó, có nhiều dạng tượng như người đàn ông đang giao hợp, đi săn hay đánh trống, người đàn bà đang mang bầu hay chăm con, vợ chồng đang âu yếm nhau v.v...
Thời gian qua, nhiều pho tượng mới mô phỏng tượng mồ xưa đã được tạo ra để bày ở nhà làng, nhà các nghệ nhân hay sân vườn các điểm ăn uống, du lịch ở Tây Nguyên. Chúng được coi là các tác phẩm nghệ thuật dân gian mang bản sắc Tây Nguyên. Tuy phong phú về nội dung và đa dạng về hình thức, chúng có vẻ hơi thừa tính phóng khoáng, hồn nhiên nhưng hơi thiếu vẻ đẹp nguyên sơ, màu sắc thiêng liêng, cổ kính.
Có lẽ vì thế, giờ đây, khi các pho tượng thần lúa Ifugao cổ hay kim vẫn là đối tượng tìm kiếm của các nhà sưu tầm và khách du lịch thì các pho tượng mồ Tây Nguyên, cũ hay mới chủ yếu cũng chỉ là đối tượng của giới sưu tầm, các bảo tàng hay của các trung tâm văn hóa - du lịch. Vì nhiều lý do, chúng gần như không thể trở thành quà lưu niệm với khách du lịch trong hay ngoài nước.
Tạ Đức