Nhà thơ Hữu Thỉnh (bìa trái) và tác giả
Hành trình máu lửa
Ngay từ khi xuất hiện trên thi đàn vào năm 1979, trường ca “Đường tới thành phố” đã nhận được sự đón nhận nồng nhiệt của độc giả và đồng nghiệp. Không phải ngẫu nhiên mà trường viết văn Nguyễn Du khóa 1 đã chọn trường ca “Đường tới thành phố” của Hữu Thỉnh, trường ca “Những người đi tới biển” của Thanh Thảo và thơ Phạm Tiến Duật để tổ chức hội thảo. Nhà thơ Phạm Tiến Duật - người cùng thời với thế hệ Hữu Thỉnh đã bộc bạch một cách không giấu giếm khi tiếp cận với trường ca “… tôi thực sự vui sướng, cảm động, đọc đi đọc lại…”. Đường tới thành phố là hành trình đi qua máu lửa, nước mắt, chồng chất gian khổ, hi sinh của cả hậu phương lớn miền Bắc và tiền tuyến lớn miền Nam suốt 20 năm có lẻ. Trường ca đã dung nạp và ôm chứa bao nhiêu là hiện thực ngồn ngộn của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. “Đường tới thành phố” gồm 5 chương, được kết cấu một cách uyển chuyển, đan cài hợp lý và kết nối xuyên suốt bằng mạch cảm xúc trữ tình công dân hòa quyện nhuần nhuyễn với yếu tố sử thi. Từng mảng hiện thực đều được tác giả chắt lọc kỹ lưỡng để bổ sung và hoàn thiện lẫn nhau, góp phần vẽ nên diện mạo tổng thể của trường ca “Đường tới thành phố”.
Tôi đặc biệt ấn tượng về mảng thơ anh viết về phía sau người lính, đó là những câu thơ khắc họa sống động những người mẹ, người chị, người vợ, người em ở hậu phương. Đây cũng là mối quan tâm thường trực nếu không muốn nói là chi phối đáng kể đến tâm trạng và cảm xúc của những người ra trận thời chống Mỹ.
Trước hết, nói về mẹ - điểm tựa tinh thần bền vững của người lính:
… tiếng mẹ ru ta cuối bãi
đầu ghềnh
mẹ đi gánh than mẹ thường gánh vã
nhem nhuốc cả ngày xanh
cắn răng mà chịu
bấm bùn mà đi…
…
Nếu mẹ biết chỉ còn đêm nay
đêm nay nữa là con vào thành phố
mẹ sẽ khóc
rồi mẹ đi nhóm lửa
tưởng sáng ra là con đã có nhà…
Vẫn là hình ảnh bà mẹ nông thôn tần tảo bao đời, với đức hi sinh cao cả, thầm lặng mà ta đã gặp trong “Sức bền của đất” - bài thơ dài đã mang về giải nhất cho Hữu Thỉnh trong cuộc thi thơ do Báo Văn Nghệ tổ chức năm 1975.
Tôi đã đọc đi đọc lại không biết bao lần những câu thơ anh viết về người chị có chồng đi chiến trường B, và lần nào cũng không sao cầm được nước mắt. Nếu tôi nhớ không lầm thì nhiều bài viết về trường ca “Đường tới thành phố” trước đây cũng không tiếc lời khen ngợi những câu thơ tuyệt bút dưới đây:
Bởi nơi ta về có mười tám thôn vườn trầu,
mỗi vườn trầu có bao nhiêu mùa hạ
chị đợi chờ quay mặt vào đêm
hai mươi năm mong trời chóng tối
hai mươi năm cơm phần
để nguội…
…
Chị tôi không trẻ nữa, xóm làng thương ý tứ vẫn kêu cô
xóm làng thương không khoe con trước mặt
hai mươi năm chị tôi đi đò đầy
cứ sợ đắm vì mình còn
nhan sắc…
…
Chị thiếu anh nên chị bị thừa ra
trong giỗ tết họ hàng nội ngoại
bao nhiêu tiếng cười vẫn côi cút một mình
…
một mình một mâm cơm
ngồi bên nào cũng lệch…
Tác phẩm Văn học được giả thưởng nhà nước
Đức hi sinh, chung thủy
Cả về sau này, khi đọc bài thơ “Nghe tiếng cuốc kêu” của Hữu Thỉnh viết trong thời hậu chiến, ta lại thêm một lần nghiêng mình xuống đức hi sinh bền bỉ tuyệt vời của người vợ chung thủy chờ chồng:
Một đời người mà chiến chinh nhiều quá
Em níu giường níu chiếu
đợi anh
Em tránh những người con
trai đẹp…
Ở một góc nhìn khác, ta bắt gặp hình ảnh người vợ nuôi chồng dưới căn hầm bí mật của nhà mình, trong vùng hậu địch với ngổn ngang bao tâm trạng buồn, thương rối bời khó tả:
Chị nuôi anh dưới đất
năm năm trời anh nhìn chị trong đêm
chị gặp anh mà không hay anh ốm mập
gặp anh mà không hay anh đen trắng ra sao
chỉ nghe giọng anh mỗi ngày nặng xuống
Còn đây là những dòng thơ, anh viết về người vợ, người yêu vừa da diết khôn nguôi, vừa bồi hồi thổn thức:
Em có thể mất anh bất cứ
lúc nào
em có thể bơ vơ khi em còn rất trẻ
…
Sông ơi sông nếu ta phải ra đi
bậc xuống thấp để em ra
gánh nước…
Trong “Đường tới thành phố” khi viết về sự khốc liệt đến tàn nhẫn, trần trụi của chiến tranh, Hữu Thỉnh có cách thể hiện tỉnh táo đến sắc lạnh mà không kém phần ám ảnh:
Thêm một người bị cắm cọc
bêu đầu
thêm một người bị lôi đi
mất tích
thêm một người bị chụp ảnh lăn tay
thêm một làng bị quăng bom hủy diệt
…
Xạ thủ trung liên
nốt ruồi đen chìm xuống
lưỡng quyền cao khói súng
cao lên
sau loạt bom vùi
anh gặp toàn lính mới
…
Vốn là lính xe tăng, Hữu Thỉnh đã dành tình cảm sâu lắng nhất khi viết về những đồng đội đã hi sinh trên tháp pháo ngay trước thềm chiến dịch Hồ Chí Minh toàn thắng:
Tháp pháo bong sơn chùm con số không còn
sắt thép vô danh như cuộc đời chiến sĩ
có nắm cơm đã cháy
thành than
đen chỉ còn một nửa
có dấu tay in lõm vào trong
ngón tay bè của đồng chí lái
các anh ăn nửa bữa trong ngày
phần để dành
làm ta day dứt mãi…
Có thể nói, những cây cầu bắc qua trùng trùng gian khổ, để đi đến bến bờ chiến thắng ngày 30/4/1975 của toàn dân tộc được dựng lên từ những chất liệu vô cùng đặc biệt mà mẫu số chung là đỉnh cao ngút ngàn của sự hi sinh. Trong bài trả lời phỏng vấn gần đây nhất, nhà thơ Hữu Thỉnh cho biết, trong những tác phẩm viết về chiến tranh, bài thơ “Phan Thiết có anh tôi” và trường ca “Đường tới thành phố” là những tác phẩm đã làm trái tim ông không ngừng khắc khoải.
50 năm qua, những vết thương trên mặt đất và sâu thẳm trong lòng người đã liền thành sẹo nhưng đọc lại trường ca “Đường tới thành phố” của Hữu Thỉnh vẫn vẹn nguyên cảm xúc buổi ban đầu. Điều này, một lần nữa đã góp phần khẳng định giá trị của tác phẩm xuất sắc này. Và đó cũng là lý do, trường ca “Đường tới thành phố” nằm trong số 50 tác phẩm văn học nghệ thuật được bình chọn vinh danh là tác phẩm tiêu biểu của văn học Việt Nam hiện đại sau nửa thế kỷ nước nhà thống nhất.
Đỗ Quang Vinh .