Giải quyết các tồn tại
Nhận thức về đảng chính trị cầm quyền, Đảng Cộng sản Việt Nam cầm quyền, phương thức cầm quyền của Đảng còn những ý kiến khác nhau về một số điểm cơ bản. Những ý kiến khác nhau về những điểm nêu trên, gồm:
Một là, về khái niệm đảng cầm quyền (đảng chính trị cầm quyền).
Khái niệm này, đã xuất hiện và được sử dụng cách đây nhiều thế kỷ và phổ biến ở các nước tư bản chủ nghĩa, khi các đảng tư sản ở các nước giành được chính quyền từ giai cấp phong kiến, quý tộc, trở thành đảng tư sản cầm quyền. Một số đảng tư sản cầm quyền đã tuyên bố trước thế giới về sự cầm quyền của họ (Tuyên ngôn Độc lập năm 1776 của nước Mỹ; Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Cách mạng Pháp năm 1789, được Chủ tịch Hồ Chí Minh trích dẫn trong Tuyên ngôn Độc lập đọc tại Vườn hoa Ba Đình, Hà Nội ngày 2-9-1945).
Tuy chưa dùng khái niệm Đảng Cộng sản cầm quyền, song trong các tác phẩm của mình C. Mác và Ph. Ăng ghen đã đề cập và luận bàn về các khía cạnh, nội hàm chủ yếu của khái niệm này, nhất là trong tác phẩm “Nội chiến ở Pháp” (Giai cấp công nhân đã giành được chính quyền, cầm quyền trong 72 ngày - 72 ngày Công xã Pa-ri) và tác phẩm “Phê phán Cương lĩnh Gô-ta” của C. Mác.
Trong thế kỷ XX, khái niệm “Đảng Cộng sản cầm quyền” được V.I Lênin sử dụng thường xuyên trong các cụm từ “Đảng cầm quyền”, “Đảng chấp chính” từ sau thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười năm 1917 ở Nga. Khái niệm “Đảng Cộng sản cầm quyền” được dùng phổ biến khi hệ thống XHCN thế giới ra đời, song song tồn tại và đối lập với hệ thống tư bản chủ nghĩa thế giới từ sau Thế chiến thứ hai (năm 1945). Từ năm 1991, khái niệm này, hầu như không được dùng ở Liên Xô và các nước XHCN Đông Âu, khi CNXH ở những nước đó sụp đổ, Đảng Cộng sản mất chính quyền. Ở nước ta khái niệm “Đảng Cộng sản Việt Nam cầm quyền” xuất hiện và được sử dụng từ sau thắng lợi của cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945, được sử dụng nhiều hơn trong thời kỳ đổi mới, nhất là trong những thập niên gần đây. Nhìn chung, khái niệm này, vẫn là vấn đề mới và cần đạt được sự thống nhất trong công tác nghiên cứu lý luận của Đảng.
Hai là, hiện nay, ở nước ta còn nhiều ý kiến khác nhau về dùng khái niệm “Đảng Cộng sản Việt Nam cầm quyền”, hay khái niệm “Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo chính quyền”, hay “Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo trong điều kiện có chính quyền”.
Nhiều người cho rằng, nên dùng khái niệm “Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo chính quyền”. Ý kiến này, đúng, song chưa đủ, còn thiếu nhiều đối tượng tác động, chi phối của Đảng. Khi giành được chính quyền, Đảng không chỉ lãnh đạo chính quyền, mặc dù đây là công việc đặc biệt quan trọng, mà còn lãnh đạo MTTQ, các tổ chức CT-XH, tổ chức xã hội và nhân dân, các lĩnh vực đời sống xã hội.
Có thể dùng khái niệm “Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo trong điều kiện có chính quyền” thay cho khái niệm “Đảng Cộng sản Việt Nam cầm quyền”. Song, dùng khái niệm này, chưa khắc họa đầy đủ và sâu sắc bản chất của việc cầm quyền của Đảng. Đảng cầm quyền là thời kỳ Đảng có bước phát triển lớn về chất từ lãnh đạo giành chính quyền đến có chính quyền, có quyền tác động, chi phối mọi hoạt động không chỉ của Nhà nước, mà còn của các tổ chức CT-XH, tổ chức xã hội và nhân dân theo đường lối, quan điểm của Đảng.
Hơn nữa, dùng khái niệm “Đảng Cộng sản Việt Nam cầm quyền” còn luôn nhắc nhở Đảng về trách nhiệm của Đảng cầm quyền. Đó là: Đảng chịu trách nhiệm trước hết và cao nhất về sự phát triển, vững mạnh của đất nước, cuộc sống ấm no, hạnh phúc của nhân dân, vận mệnh của đất nước và dân tộc, xây dựng thành công CNXH và bảo vệ vững chắc Tổ quốc; nhắc nhở các cấp ủy, tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên toàn tâm toàn ý xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh về mọi mặt, thực hiện tốt trách nhiệm nêu trên. Vì vậy, nên dùng khái niệm “Đảng Cộng sản Việt Nam cầm quyền”. Văn kiện của Đảng, Nhà nước ta hiện nay đều dùng khái niệm này.
Ảnh minh họa: VGP
Ba là, phương thức cầm quyền (PTCQ) của Đảng, mối quan hệ giữa phương thức này, với phương thức lãnh đạo (PTLĐ) của Đảng và việc kết hợp hai phương thức này, thành phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng còn những vấn đề chưa rõ, chưa tạo sự thống nhất cao.
Nhìn chung, PTLĐ, đổi mới PTLĐ của Đảng đã rõ và có sự đồng thuận cao. PTCQ và đổi mới PTCQ của Đảng được chính thức đưa vào Văn kiện Đại hội XII của Đảng và xác định nhiệm vụ phải nghiên cứu làm sáng tỏ. Qua 5 năm thực hiện nhiệm vụ này, đạt kết quả bước đầu, trong Văn kiện Đại hội XIII, PTLĐ và PTCQ của Đảng được kết hợp với nhau thành phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng. Văn kiện chỉ rõ: “Tiếp tục tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận về đổi mới phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng trong điều kiện mới”[1]; đồng thời, Văn kiện nhấn mạnh: “Đổi mới phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng” là nhiệm vụ trọng tâm thứ nhất của công tác xây dựng Đảng nhiệm kỳ này[2]. Dự thảo Báo cáo chính trị trình Đại hội XIV của Đảng tiếp tục nhấn mạnh nhiệm vụ nêu trên. Việc dùng khái niệm “Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, cầm quyền” và khái niệm “Phương thức lãnh đạo, cầm quyền Đảng Cộng sản Việt Nam” góp phần quan trọng giải tỏa việc có ý kiến khác nhau nêu trên.
Như vậy, một số vấn đề lý luận chủ yếu về PTCQ, đổi mới PTCQ của Đảng và mối quan hệ giữa hai phương thức này, chưa được làm rõ; ảnh hưởng đáng kể đến nhận thức về phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng.
Ba vấn đề nêu trên, cần được tập trung nghiên cứu làm sáng tỏ, trong đó, cần coi trọng hơn về PTCQ và đổi mới PTCQ của Đảng; tăng cường phổ biến, những vấn đề đã được luận giải nêu trên, góp phần nâng cao nhận thức, trách nhiệm của các cấp ủy, tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên, các tổ chức trong hệ thống chính trị đối với việc tiếp tục đổi mới PTCQ của Đảng đưa đất nước vươn mình trong kỷ nguyên mới, tạo nhận thức thống nhất, cơ sở để có hành động đúng tham gia đổi mới PTCQ của Đảng đạt hiệu quả.
Khắc phục những hạn chế trong công tác tổ chức, cán bộ
Những hạn chế đáng quan tâm, gồm: Về công tác tổ chức: Chính quyền địa phương hai cấp đã đi vào hoạt động, đạt kết quả bước đầu, song đặt ra một số vấn đề, như: Tình trạng một bộ phận cán bộ cấp xã quan liêu, xa dân và cấp xã có xu hướng trở thành “cấp huyện mới” ở một số nơi. Về công tác cán bộ: Công tác quản lý cán bộ còn những hạn chế, chất lượng thấp, nhất là quản lý cán bộ từ cơ sở; khá nhiều cán bộ chủ chốt, người đứng đầu, kể cả một số cán bộ cấp cao bị xử lý kỷ luật chủ yếu do sai lầm, khuyết điểm, suy thoái nghiêm trọng cách thời điểm bị xử lý kỷ luật nhiều năm, khi cán bộ làm việc ở cơ sở, địa phương. Đánh giá cán bộ vẫn là khâu yếu, chất lượng thấp; công tác bổ nhiệm cán bộ ở nhiều nơi chưa khắc phục được tình trạng thực hiện đúng thủ tục, quy trình của Đảng, song vẫn lọt những cán bộ cơ hội, suy thoái đảm nhận vị trí cao hơn. Ở một số nơi, việc bổ nhiệm cán bộ chủ yếu do bí thư cấp ủy và trưởng ban tổ chức cấp ủy quyết định; vai trò của cấp ủy, ban thường vụ cấp ủy mờ nhạt… Tình trạng chạy quy hoạch, luân chuyển, bằng cấp, khen thưởng, danh hiệu, chạy tội…, trong đó có cán bộ cấp cao còn xảy ra. Giải quyết tốt những vấn đề này, cần:
Một là, ban hành, tổ chức thực hiện những quy định về chức năng, nhiệm vụ, tổ chức bộ máy của các cơ quan, đơn vị ở Trung ương, cấp tỉnh cấp xã sau khi sáp nhập; đặc biệt coi trọng công việc này, đối với các tổ chức trong hệ thống chính trị cấp xã; ngăn chặn xu hướng cấp xã trở thành “cấp huyện mới” có thể xảy ra ở nhiều nơi.
Hai là, khắc phục đạt hiệu quả tính hình thức trong công tác quản lý, đánh giá cán bộ; tăng cường quản lý cán bộ ngay từ cơ sở; đẩy mạnh một cách quyết liệt việc kiểm soát quyền lực trong công tác cán bộ, ngăn chặn và đẩy lùi các tệ “chạy” nêu trên.
Ba là, ban hành và hướng dẫn thực hiện các quy định về chức trách, nhiệm vụ, quyền hạn của từng chức danh cán bộ, công chức cấp xã; ngăn chặn kịp thời bệnh quan liêu xa dân của cán bộ, công chức cấp xã trong thực hiện mô hình chính quyền địa phương hai cấp.
Cầm quyền bằng hành động gương mẫu của đảng viên
Trên thực tế, bên cạnh tuyệt đại đa số đảng viên tiên phong, gương mẫu vượt qua khó khăn, thực hiện tốt nhiệm vụ được giao, vẫn còn không ít đảng viên kém tiên phong, gương mẫu, trong đó có nhiều đảng viên là cán bộ chủ chốt các cấp và một số đảng viên là cán bộ cấp cao, gây bức xúc trong nhân dân và dư luận. Những đảng viên này, làm tổn hại không nhỏ uy tín, thanh danh, vị thế cầm quyền của Đảng, gây khó khăn đáng kể cho việc đổi mới PTCQ của Đảng. Để khắc phục có hiệu quả tình trạng này, tạo thuận lợi cho việc đổi mới PTCQ của Đảng đạt hiệu quả trong kỷ nguyên mới, cần:
Một là, tăng cường tuyên truyền nâng cao nhận thức, trách nhiệm nêu gương của đảng viên, đặc biệt coi trọng đảng viên là cán bộ chủ chốt, người đứng đầu, đảng viên là cán bộ cấp cao nêu gương về mọi mặt, nhất là về phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống, để cán bộ khác và nhân dân noi theo; thực hiện nghiêm nguyên tắc cán bộ giữ chức vụ càng cao càng phải gương mẫu.
Hai là, quán triệt sâu sắc và thực hiện nghiêm, đạt hiệu quả việc thực hiện Quy định số 08-QĐi/TW, ngày 25-10-2018 của Ban Chấp hành Trung ương “về trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, trước hết là Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Ban Bí thư, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương”.
Ba là, tăng cường kiểm tra, giám sát của cấp ủy, tổ chức đảng đối với đảng viên, nhất là đảng viên là cán bộ về việc gương mẫu; tạo thuận lợi cho các tổ chức CT-XH và nhân dân địa phương, công chức, viên chức trong cơ quan, đơn vị giám sát việc gương mẫu của đảng viên; đề cao việc tự giác thực hiện trách nhiệm nêu gương của đảng viên.
Cầm quyền bằng công tác kiểm tra, giám sát
Công tác kiểm tra, giám sát của cấp ủy, tổ chức đảng ở nhiều nơi vẫn là khâu yếu, chất lượng thấp, nhất là kiểm tra khi có dấu hiệu vi phạm và công tác giám sát, ảnh hưởng đáng kể đến kết quả đổi mới PTCQ của Đảng. Để đổi mới PTCQ của Đảng trong kỷ nguyên mới đạt hiệu quả cần tập trung khắc phục tốt những yếu kém này. Cần:
Một là, coi trọng ổn định tổ chức, cán bộ ủy ban kiểm tra và cấp ủy các cấp sau khi sáp nhập, tăng cường công tác kiểm tra, giám sát của cấp ủy, ủy ban kiểm tra các cấp.
Hai là, đảng ủy các cấp tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo của ủy ban kiểm tra cùng cấp về công tác kiểm tra, giám sát; coi trọng kiểm tra khi có dấu hiệu vi phạm và công tác giám sát để phòng, ngăn chặn sai lầm, khuyết điểm ngay từ khi mới manh nha.
Ba là, đảng ủy các cấp coi trọng thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát của mình theo quy định của Điều lệ Đảng; kết hợp chặt chẽ công tác kiểm tra, giám sát của đảng ủy với công tác giám sát của các tổ chức CT-XH và công tác thanh tra, kiểm toán, điều tra của các cơ quan nhà nước.
Ngăn chặn, đẩy lùi một cách cơ bản suy thoái, tiêu cực
Để tiếp tục đổi mới PTCQ của Đảng trong kỷ nguyên mới, đạt hiệu quả, cần tập trung cao độ, với quyết tâm chính trị cao ngăn chặn, đẩy lùi một cách căn bản tình trạng nêu trên. Cần:
Một là, phát huy sức mạnh tổng hợp của hệ thống chính trị và toàn dân thực hiện đồng bộ, hiệu quả phương châm 4 không: “Không thể”, “không dám”, không muốn”, “không cần” trong phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực.
Để ngăn chặn tình trạng suy thoái, tiêu cực trong cán bộ, đảng viên V.I. Lênin nhấn mạnh phải luôn coi trọng dựa vào ý kiến của quần chúng ngoài đảng. V.I.Lênin viết: “…đối với việc đánh giá người, và gạt bỏ những kẻ “chịu vào đảng”, bọn “làm quan”, bọn đã bị “quan liêu hóa”, thì những lời chỉ dẫn của quần chúng vô sản ngoài đảng và trong nhiều trường hợp thì cả những lời chỉ dẫn của quần chúng nông dân ngoài đảng nữa, rất là quý báu”[3].
Hai là, kết hợp chặt chẽ giữa tích cực phòng ngừa với chủ động phát hiện, xử lý nghiêm minh, kịp thời các hành vi tham nhũng, lãng phí, tiêu cực, không có vùng cấm, không có ngoại lệ, với quyết tâm chính trị cao từ Trung ương đến cơ sở; trong đó phòng ngừa là chính, cơ bản, lâu dài, phát hiện, xử lý là quan trọng, đột phá.
Ba là, thực hiện đồng bộ, hiệu lực, hiệu quả thể chế phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực; nâng cao tính chiến đấu của các cấp ủy, tổ chức đảng; chủ động phòng ngừa, tự phát hiện và xử lý hành vi tham nhũng, lãng phí, tiêu cực.
Bốn là, triển khai quyết liệt, thường xuyên, toàn diện, đồng bộ công tác kiểm tra, giám sát, thanh tra, kiểm toán, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án; tăng cường hợp tác quốc tế về phòng, chống tham nhũng.
Năm là, xây dựng văn hóa liêm chính, không tham nhũng, lãng phí, tiêu cực trong cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức và nhân dân.
Vĩ thanh
Để đưa đất nước vươn mình trong trong kỷ nguyên mới, thực hiện thắng lợi mục tiêu đến năm 2030, kỷ niệm 100 năm thành lập Đảng; đến năm 1945, kỷ niệm 100 năm thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nay là nước Cộng hòa XHCN Việt Nam do Đảng xác định; từng bước thực hiện thắng lợi mục tiêu cao cả của Đảng và nhân dân ta là dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, xây dựng thành công CNXH trên đất nước ta và bảo vệ vững chắc Tổ quốc, Đảng phải được đổi mới nhiều mặt. Trong đó, đổi mới PTCQ của Đảng là một nhiệm vụ trọng yếu. Để thực tốt nhiệm vụ này, cần đặc biệt coi trọng thực hiện quyết liệt, đồng bộ đạt hiệu quả nhiều giải pháp. Có thể nghiên cứu nắm chắc những vấn đề đặt ra và thực hiện tốt các giải pháp đề xuất nêu trên.
[1] ĐCS VN, Văn kiện ĐH đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập I, Nxb CTQG Sự thật, HN, 2021, tr. 199
[2] ĐCS VN, Văn kiện ĐH đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập I, Nxb CTQG Sự thật, HN, 2021, tr. 200
[3] V.I. Lênin, toàn tập, tập 44, Nxb Tiến Bộ Mátxcơva, 1977, tr. 152