Từ những trạm y tế vùng cao đến trung tâm y tế huyện miền biển, nỗ lực đổi mới và phát triển y tế cơ sở đang thổi một luồng sinh khí mới vào hệ thống chăm sóc sức khỏe toàn dân.
Theo PGS-TS.Phan Lê Thu Hằng, Phó vụ trưởng Vụ Kế hoạch - Tài chính (Bộ y tế), đầu tư nâng cấp mạng lưới y tế cơ sở không chỉ giúp cải thiện năng lực, hiệu quả hoạt động mà còn thể hiện tinh thần trách nhiệm, sáng tạo của đội ngũ cán bộ y tế ở cả trung ương và địa phương.
Nghị quyết 72 mở ra cơ hội bứt phá cho y tế cơ sở, xây dựng nền tảng vững chắc cho hệ thống y tế công bằng, hiện đại, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của người dân.
Trong bối cảnh thế giới đang chuyển hướng mạnh mẽ sang mô hình chăm sóc sức khỏe ban đầu, dự phòng chủ động và nâng cao sức khỏe, Việt Nam đang đối mặt với nhiều thách thức như mô hình bệnh tật kép, hệ thống cung ứng dịch vụ y tế phân mảnh, phụ thuộc vào bệnh viện tuyến trên, nguồn lực tài chính khiêm tốn.
Chính vì vậy, y tế cơ sở và y tế dự phòng luôn được Đảng, Nhà nước và ngành Y tế đặc biệt quan tâm, coi là nền tảng giúp hệ thống y tế Việt Nam vận hành hiệu quả trong mọi hoàn cảnh.
Đầu tư cho y tế cơ sở là nhiệm vụ cấp bách và ưu tiên dài hạn, là thành tố trung tâm trong quá trình đổi mới hệ thống y tế quốc gia. Bộ Y tế trong thời gian qua đã ưu tiên cao nhất cho việc thiết kế và triển khai chương trình đổi mới, phát triển mạng lưới y tế cơ sở toàn diện trên bốn trụ cột: tạo cơ chế chính sách, định hướng chiến lược trung và dài hạn; cải thiện phối hợp liên ngành trong chăm sóc sức khỏe; hoàn thiện hệ thống hướng dẫn chuyên môn; và huy động nguồn lực tài chính, kỹ thuật hỗ trợ các địa phương, nhất là vùng khó khăn.
Trong công tác xây dựng chiến lược, nhiều định hướng trung và dài hạn đã được hình thành, như Chiến lược quốc gia bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân đến năm 2030, tầm nhìn 2045. Đặc biệt, Chỉ thị 25-CT/TW khẳng định chăm sóc sức khỏe ban đầu, y tế cơ sở là ưu tiên hàng đầu, dài hạn và bức thiết.
Theo đó, phương thức chăm sóc được chuyển từ “giải quyết bệnh tật” sang “chăm sóc toàn diện, liên tục suốt vòng đời”, chú trọng đến yếu tố kinh tế - xã hội - môi trường. Quan niệm đầu tư cũng được đổi mới, từ “đầu tư rẻ tiền” sang “đầu tư tương xứng, hiệu quả nhất cho sức khỏe người dân”.
Tiếp cận hệ thống được mở rộng, không chỉ tập trung vào nội tại y tế cơ sở mà còn hướng tới sự cân bằng, tương tác giữa các tuyến và các ngành, cộng đồng.
Về phối hợp liên ngành, Bộ Y tế đã chủ động triển khai nhiều hoạt động phối hợp đa lĩnh vực trong chăm sóc sức khỏe, đặc biệt là y tế cơ sở. Nhờ đó, đầu tư cho y tế cơ sở trong các Chương trình Mục tiêu Quốc gia như Xây dựng nông thôn mới, Giảm nghèo bền vững, Phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi được chú trọng, giúp bổ sung nguồn lực cho ngành Y tế địa phương sau khi Chương trình Mục tiêu Quốc gia Y tế - Dân số không còn tiếp tục.
Cùng với đó, Bộ Y tế liên tục cập nhật, hoàn thiện hệ thống hướng dẫn chuyên môn kỹ thuật cho y tế cơ sở, từ quản lý bệnh không lây nhiễm, dịch vụ theo mô hình y học gia đình đến chuyển đổi số trong chăm sóc ban đầu, giúp mạng lưới y tế cơ sở vận hành linh hoạt, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của người dân.
Đặc biệt, trong công tác huy động nguồn lực hỗ trợ địa phương, Bộ Y tế đã mở rộng hợp tác với các tổ chức quốc tế như WHO, UNICEF, UNFPA, cùng các đối tác song phương, nguồn vốn vay ưu đãi từ WB, ADB và đối tác thương mại qua sáng kiến hệ sinh thái chăm sóc ban đầu.
Dự án Đầu tư xây dựng và phát triển hệ thống cung ứng dịch vụ y tế tuyến cơ sở sử dụng vốn WB (Dự án WB) và Chương trình Đầu tư phát triển Mạng lưới Y tế cơ sở vùng khó khăn sử dụng vốn ADB (Chương trình ADB) có ý nghĩa đặc biệt quan trọng nhờ quy mô vốn lớn và can thiệp toàn diện nhằm nâng cao năng lực y tế cơ sở tại các địa phương khó khăn.
Dù phải đối mặt với thách thức về mô thức quản trị mới, gián đoạn do đại dịch Covid-19 và thay đổi cơ chế quản lý vốn ODA, Bộ Y tế, Ban Quản lý Dự án trung ương và các địa phương vẫn thể hiện tinh thần trách nhiệm, sáng tạo trong điều hành.
Nhờ đó, hai dự án lớn nói trên được triển khai vượt kỳ vọng, góp phần hỗ trợ ngành Y tế thực hiện hiệu quả các định hướng chiến lược như Nghị quyết 20, Chỉ thị 25 và Nghị quyết 72, đồng thời minh chứng cho tính đúng đắn của việc phân cấp, phân quyền cho địa phương.
Theo PGS-TS.Phan Lê Thu Hằng, để vượt qua những khó khăn tưởng chừng bất khả thi, cần có tinh thần trách nhiệm cao, dám nhận, dám làm, dám đổi mới. Những mô hình sáng tạo như lượng hóa tiến độ tại Ban Quản lý Trung ương, bảng kiểm chất lượng tại trạm y tế xã, hay quản lý bệnh không lây nhiễm đã tạo nên điểm sáng kỹ thuật, thúc đẩy y tế cơ sở Việt Nam hội nhập xu thế toàn cầu.
Trong thời gian tới, Bộ Y tế đặt mục tiêu nỗ lực cao nhất để phát triển mạng lưới y tế cơ sở theo tinh thần Chỉ thị 25 và Nghị quyết 72 của Bộ Chính trị, đặc biệt trong bối cảnh cả nước đang triển khai mô hình quản lý ba cấp: Trung ương, tỉnh và xã.
Một nhiệm vụ quan trọng là hoàn thiện, trình phê duyệt và đưa vào triển khai Chương trình Mục tiêu Quốc gia về Chăm sóc sức khỏe, Dân số và Phát triển giai đoạn 2026-2035, bắt đầu từ năm 2026.
Theo Nghị quyết 72-NQ/TW, chính sách miễn viện phí sẽ được thực hiện trước tiên cho các đối tượng chính sách xã hội, người yếu thế, người có thu nhập thấp và các nhóm ưu tiên khác trong phạm vi quyền lợi bảo hiểm y tế.
Từ năm 2026, Quỹ Bảo hiểm y tế sẽ từng bước tăng chi cho phòng bệnh, chẩn đoán, điều trị sớm nhằm giảm gánh nặng tài chính cho người dân, đồng thời phù hợp với việc tăng mức đóng bảo hiểm y tế từ năm 2027.
Ngân sách nhà nước và Quỹ Bảo hiểm y tế cũng sẽ chi trả cho một số dịch vụ phòng bệnh, quản lý bệnh mạn tính, khám sức khỏe định kỳ và khám sàng lọc tại tuyến cơ sở theo lộ trình phù hợp.
Nghị quyết 72 mở ra cơ hội bứt phá cho y tế cơ sở, xây dựng nền tảng vững chắc cho hệ thống y tế công bằng, hiện đại, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của người dân. Nhiều cán bộ y tế bày tỏ sự phấn khởi, tin tưởng vào những chính sách mang tính đột phá của Nghị quyết, đặc biệt ở nội dung phát triển y tế cơ sở bởi đây chính là động lực giúp họ an tâm công tác, gắn bó và cống hiến lâu dài.
Để y tế cơ sở phát huy được vai trò “gần dân nhất”, lãnh đạo các Sở Y tế địa phương đã giao nhiệm vụ cho các bệnh viện đa khoa tỉnh hỗ trợ đào tạo nhân lực tuyến xã, đồng thời phối hợp với các trường đại học y khoa tổ chức lớp tập huấn nâng cao chuyên môn, giúp nhân viên y tế tuyến cơ sở thực hiện thành thạo kỹ thuật như siêu âm, đọc điện tâm đồ, sàng lọc và chuyển tuyến hợp lý.
Một điểm nhấn quan trọng khác là chính sách đãi ngộ cho đội ngũ bác sỹ tuyến cơ sở. Trước đây, mức lương của bác sỹ mới ra trường không tương xứng với thời gian đào tạo dài, khiến việc giữ chân bác sỹ trẻ ở vùng khó càng gian nan.
Với Nghị quyết 72, lần đầu tiên nghề y được xác định là nghề đặc biệt, có chính sách sử dụng, đào tạo và đãi ngộ đặc thù.
Theo đó, bác sỹ, bác sỹ y học dự phòng, dược sỹ sẽ được xếp lương từ bậc 2 khi tuyển dụng, mức phụ cấp ưu đãi nghề tối thiểu 70%, và có thể đạt tới 100% nếu làm việc tại vùng dân tộc, miền núi, biên giới, hải đảo hoặc lĩnh vực đặc thù như tâm thần, pháp y, hồi sức cấp cứu. Đây là cú hích mạnh mẽ, tạo động lực để đội ngũ y tế yên tâm gắn bó với cơ sở.
Bộ trưởng Bộ Y tế Đào Hồng Lan cho biết, trong giai đoạn 2025-2030, mỗi năm các địa phương sẽ luân chuyển, điều động ít nhất 1.000 bác sỹ về làm việc có thời hạn tại trạm y tế xã.
Mục tiêu đến năm 2027, mỗi trạm có ít nhất 4-5 bác sỹ, và đến năm 2030 có đủ bác sỹ theo chức năng, nhiệm vụ. Để đạt mục tiêu này, Bộ Y tế đang triển khai đồng bộ các giải pháp từ đào tạo, phân bổ nguồn lực, chính sách đãi ngộ đến hoàn thiện cơ chế tuyển dụng, sử dụng nhân lực.
Song song với đó là công tác đào tạo bác sỹ là người địa phương, những người sau khi hoàn thành chương trình học sẽ quay về phục vụ quê hương mình. Bộ Y tế cũng tập trung đầu tư phát triển các cơ sở đào tạo y khoa chất lượng cao ngang tầm khu vực, đẩy mạnh đào tạo chuyên sâu theo hướng thực hành, bám sát nhu cầu thực tế.
Các cơ sở y tế tuyến xã sẽ được đầu tư đồng bộ về cơ sở vật chất, thiết bị, thuốc men cơ bản để đảm bảo điều kiện làm việc và nâng cao chất lượng dịch vụ. Chính sách hỗ trợ đầu tư cho hệ thống y tế cơ sở gắn liền với việc cải thiện môi trường làm việc, giảm áp lực cho nhân viên y tế và tăng niềm tin của người dân.
D.Ngân