Đòn bẩy thể chế cho quá trình chuyển đổi số quốc gia

Đòn bẩy thể chế cho quá trình chuyển đổi số quốc gia
12 giờ trướcBài gốc
Lãnh đạo Cục Công nghiệp công nghệ số (Bộ KH & CN) cho hay, sau khi các đại biểu Quốc hội tham gia biểu quyết, Việt Nam trở thành nước đầu tiên trên thế giới ban hành một bộ luật riêng về lĩnh vực Công nghiệp, công nghệ số.
Tăng số lượng doanh nghiệp công nghiệp công nghệ số lên 150.000 vào năm 2035
Nhằm xây dựng một hệ sinh thái doanh nghiệp CNCNS mạnh mẽ với mục tiêu đạt 150.000 doanh nghiệp vào năm 2035, Luật đưa ra các chính sách hỗ trợ toàn diện. Doanh nghiệp vừa và nhỏ được hỗ trợ chi phí đầu tư hạ tầng, đào tạo nhân lực chất lượng cao và ưu tiên tham gia đấu thầu các dự án mua sắm công.
Trí tuệ nhân tạo được ứng dụng trên những phương tiện vận tải tự lái, điển hình là ôtô. Ảnh minh họa
Về tài chính, Nhà nước hỗ trợ vốn đầu tư cho các dự án đặc biệt và kinh phí đổi mới công nghệ, giúp doanh nghiệp nâng cao năng lực sáng tạo và cạnh tranh. Các dự án sản xuất CNCNS và doanh nghiệp phụ trợ nhận ưu đãi thuế tương tự khu vực đặc biệt khó khăn, đồng thời thu hút đầu tư nước ngoài để tăng cường năng lực sản xuất. Việc phát triển các khu CNCNS với chính sách ưu đãi hấp dẫn tạo môi trường cho doanh nghiệp khởi nghiệp và phát triển bền vững, góp phần hiện thực hóa mục tiêu chiến lược này.
Để đảm bảo tự chủ công nghệ lõi, công nghệ số chiến lược và đảm bảo chủ quyền an ninh quốc gia về công nghệ, Luật CNCNS tập trung vào việc làm chủ công nghệ lõi và công nghệ số chiến lược. Hoạt động nghiên cứu và phát triển (R&D) được hưởng ưu đãi cao nhất, bao gồm miễn thuế thu nhập doanh nghiệp cho các dự án R&D và hỗ trợ tài chính xây dựng cơ sở hạ tầng nghiên cứu tiên tiến.
Nhà nước đặt hàng doanh nghiệp phát triển các công nghệ chiến lược như trí tuệ nhân tạo (AI), dữ liệu lớn (Big Data) và chuỗi khối (Blockchain), đảm bảo định hướng rõ ràng và nguồn lực dồi dào. Ngân sách Nhà nước ưu tiên phân bổ cho hạ tầng R&D, giúp doanh nghiệp và viện nghiên cứu có đủ điều kiện phát triển các công nghệ lõi, công nghệ số chiến lược, từ đó nâng cao vị thế của Việt Nam trong lĩnh vực công nghệ số toàn cầu.
Cùng với đó, Luật CNCNS hướng tới việc tạo ra các doanh nghiệp “đầu tàu” dẫn dắt ngành công nghệ số thông qua các chính sách chiến lược. Nhà nước đặt hàng doanh nghiệp nghiên cứu và phát triển các công nghệ tiên phong, đồng thời hỗ trợ tài chính và xúc tiến thương mại để mở rộng thị trường quốc tế. Các doanh nghiệp lớn thực hiện dự án lớn được hưởng ưu đãi giảm thuế thu nhập doanh nghiệp trong nhiều năm và hỗ trợ vốn đầu tư cho các dự án trọng điểm.
Để thu hút nhân tài, Luật áp dụng chính sách miễn thuế thu nhập cá nhân trong 5 năm cho chuyên gia công nghệ, cấp visa 5 năm cho chuyên gia nước ngoài, cùng các cơ chế đặc biệt về lương thưởng và môi trường làm việc. Những giải pháp này tạo điều kiện để hình thành các doanh nghiệp CNCNS lớn mạnh, đủ sức dẫn dắt ngành công nghệ số Việt Nam vươn tầm thế giới.
Phát triển thị trường sản phẩm, dịch vụ số và số hóa toàn dân
Luật CNCNS cũng đặt mục tiêu đưa công nghệ số đến từng người dân, phát triển thị trường số và thực hiện số hóa toàn diện. Nhà nước ưu tiên mua sắm công cho sản phẩm công nghệ nội địa, đồng thời hỗ trợ doanh nghiệp mở rộng thị trường thông qua các chương trình xúc tiến thương mại.
Chương trình “Make in Vietnam” kết hợp với Chương trình chuyển đổi số quốc gia cung cấp hỗ trợ đào tạo, ứng dụng công nghệ và nâng cao nhận thức số cho người dân. Các giải pháp số tiên tiến như chính phủ điện tử, giáo dục trực tuyến và y tế thông minh được triển khai rộng rãi, đảm bảo mỗi cá nhân trở thành một phần của nền kinh tế số, từ đó xây dựng một xã hội số, một Việt Nam số toàn diện và bền vững.
Ngoài ra, để xây dựng nền tảng hạ tầng công nghệ số vững chắc và thiết lập các tiêu chuẩn chất lượng, Luật CNCNS khuyến khích doanh nghiệp tư nhân tham gia đầu tư hạ tầng thông qua ưu đãi thuế, đất đai, và tín dụng. Nhà nước ưu tiên ngân sách cho các hạ tầng dùng chung như trung tâm dữ liệu AI, mạng 5G và điện toán đám mây, đáp ứng nhu cầu của nền kinh tế số.
Về tiêu chuẩn, Luật quy định xây dựng các quy chuẩn kỹ thuật và yêu cầu chất lượng cho sản phẩm, dịch vụ công nghệ số, đồng thời khuyến khích áp dụng tiêu chuẩn quốc tế, giúp nâng cao độ tin cậy và khả năng cạnh tranh của sản phẩm Việt Nam. Những giải pháp này tạo nền tảng vững chắc cho sự phát triển bền vững của ngành CNCNS.
Để thúc đẩy phát triển trí tuệ nhân tạo (AI) một cách bền vững, an toàn và có trách nhiệm, góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, Luật CNCNS đã lần đầu tiên đưa ra các chính sách khung chung và giao Chính phủ quy định chi tiết.
Luật quy định các nguyên tắc lấy con người làm trung tâm, đảm bảo minh bạch, an toàn và không phân biệt đối xử, với yêu cầu các hệ thống AI phải duy trì sự kiểm soát của con người. AI được phân loại thành các nhóm rủi ro cao, tác động lớn và không rủi ro cao, với các hệ thống rủi ro cao phải tuân thủ yêu cầu kỹ thuật nghiêm ngặt và giám sát chặt chẽ. Sản phẩm AI phải có dấu hiệu nhận dạng rõ ràng để đảm bảo tính minh bạch.
Các chủ thể phát triển, cung cấp và triển khai AI chịu trách nhiệm quản lý rủi ro, bảo vệ dữ liệu cá nhân và duy trì an toàn mạng. Nhà nước ưu tiên đầu tư kinh phí cho nghiên cứu AI, xây dựng hạ tầng như trung tâm dữ liệu AI, đồng thời hỗ trợ doanh nghiệp qua ưu đãi thuế và tài chính để đẩy nhanh đổi mới sáng tạo.
Phạm Huyền
Nguồn CAND : https://cand.com.vn/khoa-hoc-quan-su/don-bay-the-che-cho-qua-trinh-chuyen-doi-so-quoc-gia-i771689/