Trong bài viết này chúng tôi nêu lên vai trò của đồng chí Trần Quý Kiên trong sáng lập “Ủy ban sáng kiến” là tổ chức tiền thân của Xứ ủy Bắc Kỳ, những hoạt động, chỉ đạo về xây dựng và tổ chức Đảng của đồng chí Trần Quý Kiên với vai trò là Thường vụ Xứ ủy Bắc Kỳ, Bí thư Thành ủy Hà Nội trong những năm 1937-1939… là một trong số những hoạt động và cống hiến lớn lao của đồng chí Trần Quý Kiên đối với sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc trong những năm 1930-1945.
Đồng chí Trần Quý Kiên một trong những “hạt nhân” đầu tiên thành lập “Ủy ban sáng kiến” năm 1936
Năm 1935, hệ thống tổ chức của Đảng Cộng sản Đông Dương dần dần được khôi phục. Đầu năm 1936, thực dân Pháp tiếp tục chính sách áp bức, bóc lột nặng nề, khủng bố dã man, nhưng phong trào cách mạng ở Đông Dương không ngừng lớn mạnh. Trong số những cán bộ gây dựng lại cơ sở Đảng lúc bấy giờ, một số đông là những chính trị phạm rải rác hoặc mãn hạn tù hoặc vượt ngục trốn tù ra. Trong đó có những đảng viên cộng sản từ trước; có cả những người ở các đảng phái cách mạng khác được giác ngộ ở “trường học cách mạng” (trường học nhà tù), kiên quyết đứng trên lập trường giai cấp công nhân để đấu tranh cho lý tưởng cách mạng.
Ảnh hồ sơ của thực dân Pháp chụp đồng chí Đinh Xuân Nhạ (Trần Quý Kiên) trong tù Sơn La trước khi được ân xá năm 1936.
Những cuộc khủng bố trắng của thực dân Pháp sau phong trào Xô Viết Nghệ Tĩnh trong những năm 1931-1934, đã làm cho các cơ sở cách mạng ở Hà Nội và các địa phương ở Bắc Kỳ bị tổn thất rất nặng nề (trừ một vài địa phương ở biên giới như Cao Bằng, Lạng Sơn ít chịu ảnh hưởng của cuộc khủng bố). Đến giữa năm 1935, trước sự khủng bố, đàn áp dã man của kẻ thù, như trong Báo cáo của đồng chí Lê Hồng Phong, Tổng Bí thư của Đảng tại Đại hội lần thứ VII Quốc tế Cộng sản (tháng 7-1935), đã viết: “Một thời kỳ thất bại nặng nề và đau đớn kế tiếp cao trào [1]. Dưới sự khủng bố của địch, xứ Đông Dương nhỏ bé của chúng tôi đã có hơn 16.000 tù chính trị… Đảng chúng tôi đã bị tổn thất nặng nề. Bộ máy của Đảng bị phá hủy, liên lạc bị đứt mối, các tổ chức tan tành, những chiến sĩ cộng sản ưu tú bị cầm tù. Chỉ còn lại từng người cộng sản hoặc nhóm cộng sản riêng lẻ” [2]. Trước tình hình trên Trung ương Đảng đã hết sức chú trọng chỉ đạo việc bắt liên lạc, gây lại cơ sở ở Hà Nội và các địa phương.
Cuối tháng 7-1936, khoảng 30 trong số gần 70 tù chính trị ở nhà tù Sơn La được ân xá đợt đầu, số còn lại về đợt sau. Đồng chí Đặng Việt Châu trong hồi ký “Trường học cuộc đời" viết: “…tôi được về chuyến đầu, còn đồng chí Cây Xoan (Trường Chinh) và Trần Quý Kiên về chuyến sau” [3]. Tháng 8-1936, đồng chí Đinh Xuân Nhạ cùng với Đặng Xuân Khu và hàng trăm tù chính trị khác được trả tự do. Sở Mật thám Hà Nội và các tỉnh, thành khác tuyên bố lệnh quản thúc, rồi cho tù chính trị được ân xá trở về quê hương của mình.
Đồng chí Trần Quý Kiên viết: “Về đến nhà được mấy hôm tôi tìm ngay đến nhà báo Le Travail (Lao Động) [4] và liên lạc được với đồng chí Nguyễn Văn Cừ, Lương Khánh Thiện rồi đến đồng chí Hoàng Quốc Việt và Tô Hiệu… cùng các đồng chí tổ chức lại Đảng và phân công hoạt động” [5]. Theo Hồi ký của đồng chí Trần Huy Liệu viết: “Mấy đồng chí công tác bí mật, hoặc là Ủy viên Trung ương, hoặc là Xứ ủy Bắc Kỳ hay đi lại với chúng tôi hồi ấy là các anh Nguyễn Văn Cừ (Phùng), Lương Khánh Thiện, Tô Hiệu, Đinh Xuân Nhạ (Trần Quý Kiên) [6]”.
Sách Lịch sử Đảng bộ thành phố Hà Nội (1930-2000) cũng nói về thời điểm này, viết: “Sau khi được trả tự do, chỉ trong một thời gian ngắn, nhiều chiến sĩ cộng sản trở về Hà Nội tiếp tục hoạt động như: Nguyễn Văn Cừ, Lương Khánh Thiện, Khuất Duy Tiến, Trần Huy Liệu... Từ nhà tù Sơn La về có các đồng chí Đặng Xuân Khu, Đinh Xuân Nhạ (tức Trần Quý Kiên), Bùi Vũ Trụ...” [7].
Nói về kỷ niệm sâu sắc về đồng chí Nguyễn Văn Cừ, đồng chí Nguyễn Văn Minh [8] đã viết: “… Sau một thời gian tìm hiểu, tôi bắt được liên lạc với các đồng chí Trần Huy Liệu, Trần Quý Kiên, Đặng Việt Châu, Tô Hiệu và Nguyễn Văn Cừ. Cuộc gặp đồng chí Nguyễn Văn Cừ là do đồng chí Tô Hiệu giới thiệu - vì Tô Hiệu và Nguyễn Văn Cừ cùng bị tù với nhau ở Côn Đảo. Khi gặp anh Cừ, chúng tôi rất dễ thông cảm nhau, hiểu biết nhau, vì cùng học với nhau ở Bắc Ninh thời niên thiếu. Bây giờ gặp nhau lại cùng chung một lý tưởng, cùng chung một mục đích: Củng cố lại cơ sở đảng ở miền Bắc. Lúc này đồng chí Cừ lấy tên là Phùng” [9].
Nửa cuối năm 1936, các đồng chí Nguyễn Văn Cừ, Trần Quý Kiên, Nguyễn Văn Minh, tổ chức cuộc họp tại một địa điểm thuộc huyện Gia Lâm (nay thuộc Hà Nội), bàn kế hoạch khôi phục cơ sở Đảng và thúc đẩy phong trào cách mạng. Tại cuộc họp, các đồng chí kiểm điểm lại tình hình và phong trào ở Hà Nội và các vùng lân cận, cho rằng trong khi chưa đủ điều kiện để thành lập Xứ ủy, cần thành lập một tổ chức làm chức năng của Xứ ủy.
“Ủy ban sáng kiến” cơ quan lãnh đạo lâm thời của Xứ ủy Bắc Kỳ
Hồi ký của đồng chí Nguyễn Văn Minh viết: “Anh Cừ, tôi và Trần Quý Kiên tổ chức một cuộc họp đầu tiên ở một thửa ruộng, gần sân bay Gia Lâm, vào mùa mát năm 1936 hay 1937. Mục đích cuộc họp là trao đổi với nhau về việc đi củng cố cơ sở đảng, cơ sở cách mạng. Muốn thế cần phải có hình thức tổ chức gì? Chúng tôi nhất trí với nhau lập ra một ủy ban - gọi là “Ủy ban sáng kiến”, cũng gồm ba chúng tôi. Nhiệm vụ của ủy ban này là khôi phục cơ sở cách mạng, củng cố tổ chức đảng ở miền Bắc và bắt mối liên hệ với các đồng chí quen biết cũ mà đã ở các nhà tù về, bằng hẹn hò nhau, hoặc bằng giới thiệu cho nhau biết... để quy tụ lại sự hoạt động” [10].
Các đồng chí nhất trí thành lập "Ủy ban sáng kiến" do đồng chí Nguyễn Văn Cừ phụ trách, ủy ban làm việc như một Ban Cán sự Đảng của Xứ ủy Bắc Kỳ “cơ quan lãnh đạo lâm thời của Xứ ủy Bắc Kỳ và Thành ủy Hà Nội” [11]. Sau khi thành lập, đồng chí Nguyễn Văn Cừ đã cùng các đồng chí trong ủy ban phân công nhau bắt mối với các cơ sở đảng ở nhiều địa phương để khôi phục tổ chức đảng và phong trào cách mạng trong xứ.
"Ủy ban sáng kiến" phân công đồng chí Tô Hiệu về công tác tại Hải Phòng, Quảng Ninh, đồng chí Hoàng Văn Thụ về các vùng dân tộc thiểu số phía Bắc, và phân công Nguyễn Văn Cừ cùng với Nguyễn Văn Minh, Trần Quý Kiên phụ trách công tác móc nối liên lạc với các đồng chí ở Trung Kỳ, đồng thời trực tiếp tham gia khôi phục và phát triển các cơ sở đảng ở khu vực Hà Nội và các vùng phụ cận. Ủy ban sáng kiến mở một hiệu buôn bán thực phẩm lấy tên là “Sống” tại số 16-bis, phố Hàng Da (Hà Nội) để làm địa điểm liên lạc, chắp mối với các nơi, đưa đón các tù chính trị [12].
Sau đó, "Ủy ban sáng kiến" được bổ sung thêm nhiều cán bộ, cả về số lượng và chất lượng, mới từ các nhà tù được ân xá về, đã tích cực chuẩn bị cho việc thành lập lãnh đạo cấp Xứ. Đồng chí Nguyễn Văn Minh viết: “Đến mùa rét năm 1936, lại có một cuộc họp nữa, ở nhà anh Động, phố Hàng Đường (Hà Nội). Số người dự họp có đồng chí Nguyễn Văn Cừ, Trần Quý Kiên, tôi và Đặng Việt Châu... Mục đích cuộc họp này là bàn nhiệm vụ và biện pháp cụ thể để thi hành các nhiệm vụ mà cuộc họp trước đã bàn [13].
Sau một thời gian bị khủng bố, phong trào cách mạng dần dần hồi phục ở Hà Nội và ở các địa phương. Năm 1937, đồng chí Nguyễn Văn Cừ cùng các đồng chí Trần Quý Kiên, Nguyễn Văn Minh bàn cách khôi phục Xứ ủy Bắc Kỳ. Ủy ban hành động làm nhiệm vụ khôi phục lại cơ sở cách mạng, củng cố tổ chức Đảng ở miền Bắc và liên lạc với các đồng chí cũ ở nhà tù về được thành lập ở Hà Nội [14].
"Ủy ban sáng kiến" tổ chức thành hai bộ phận, một bộ phận hoạt động công khai, một bộ phận hoạt động bí mật. Đồng chí Nguyễn Văn Cừ hoạt động ở bộ phận bí mật. Ủy ban sáng kiến phân công đồng chí Nguyễn Văn Cừ cùng các đồng chí Nguyễn Văn Minh, Đinh Xuân Nhạ (Trần Quý Kiên) phụ trách việc móc nối liên lạc với các đồng chí ở Trung Kỳ; đồng thời trực tiếp tham gia khôi phục và phát triển các cơ sở đảng ở khu vực Hà Nội và các vùng phụ cận [15].
Nhờ sự hoạt động tích cực của các cán bộ "Ủy ban sáng kiến", tổ chức đảng ở một số địa phương đã được lập lại, phong trào cách mạng phục hồi khá mạnh mẽ. Hoạt động hiệu quả của "Ủy ban sáng kiến" đã giúp cho các đảng bộ lần lượt được lập lại ở Hải Phòng, Quảng Ninh, Nam Định... Công tác phát triển Đảng được đẩy mạnh làm cho số lượng đảng viên tăng lên, lực lượng của Đảng ngày càng lan rộng khắp trên địa bàn và các ngành trọng yếu. Đánh giá về vai trò tích cực của đội ngũ cán bộ mới ở tù ra được bổ sung cho các địa phương, đặc biệt trong công tác khôi phục và phát triển các cơ sở đảng, trong Báo cáo của Đảng Cộng sản Đông Dương gửi Ban Trung ương Quốc tế Cộng sản viết: “Việc tổ chức lại các tổ chức của Đảng có thể tiến hành khá nhanh, đó là nhờ hoạt động của các cựu tù chính trị được ân xá” [16].
Tái lập Xứ ủy Bắc Kỳ
Tháng 3-1937, Xứ ủy Bắc Kỳ [17] được lập lại gồm các đồng chí: Hoàng Tú Hưu (Hoàng Văn Nọn, Thiết) làm Bí thư [18], Nguyễn Văn Cừ, Nguyễn Văn Minh, Lương Khánh Thiện, Đặng Xuân Khu, Tô Hiệu, Hạ Bá Cang (tức Hoàng Quốc Việt), Trần Quý Kiên (tức Đinh Xuân Nhạ) [19]. Đồng chí Nguyễn Văn Cừ được cử làm đại diện Xứ ủy đi họp Hội nghị Trung ương (từ ngày 25-8 đến ngày 4-9-1937) và được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng.
Tháng 9-1937, Xứ ủy Bắc Kỳ tổ chức họp tại một căn nhà ở phố Hàng Bột (Hà Nội) để bàn biện pháp thành lập Mặt trận dân chủ chống phát xít, chống chiến tranh; tích cực phát triển tổ chức Đảng, lập Xứ ủy chính thức. Xứ ủy gồm các đồng chí Hoàng Văn Nọn, Nguyễn Văn Minh, Lương Khánh Thiện, Tô Hiệu, Đặng Xuân Khu, Hạ Bá Cang, Bảo... Ban Thường vụ gồm 3 người: Đồng chí Hoàng Văn Nọn (Bí thư), đồng chí Nguyễn Văn Minh (Phó bí thư) [20].
Đồng thời Thành ủy Hà Nội cũng được tái lập do đồng chí Lương Khánh Thiện, Thường vụ Xứ ủy Bắc Kỳ trực tiếp làm Bí thư. Cùng tham gia Thành ủy còn có các đồng chí Đinh Xuân Nhạ (Trần Quý Kiên), Nguyễn Văn Phúc, Nguyễn Mạnh Đạt (tức Lộc, Ái), Tạ Quang Sần, Nguyễn Trọng Cảnh (Trần Quốc Hoàn). Phạm vi lãnh đạo của Thành ủy Hà Nội lúc này gồm cả Sơn Tây và Hà Đông.
Sau khi dự Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương (từ ngày 25-8 đến ngày 4-9-1937), theo sự phân công của Trung ương Đảng, đồng chí Nguyễn Văn Cừ chỉ đạo phong trào cách mạng Bắc Kỳ. Đồng chí bắt tay ngay vào việc thành lập Liên Xứ ủy Bắc Kỳ - Trung Kỳ (bao gồm các tỉnh Bắc Kỳ và ba tỉnh Trung Kỳ: Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh).
Cuối năm 1937, Hội nghị thành lập Liên Xứ ủy Bắc Kỳ - Trung Kỳ khai mạc tại nhà của đồng chí Tô Hiệu thuê ở phố Hàng Bột (Hà Nội). Hội nghị gồm có các đồng chí Tô Hiệu, Nguyễn Văn Minh, Đặng Việt Châu, Nguyễn Công Hòa [21], Đinh Xuân Nhạ (Trần Quý Kiên) [22]... đại diện cho các tỉnh, thành ở miền Bắc và các tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh ở miền Trung.
Hội nghị đề ra nhiệm vụ khôi phục và phát triển hệ thống tổ chức của Đảng từ Xứ ủy đến các địa phương, đề ra biện pháp đấu tranh và các hình thức hoạt động công khai, nửa công khai của Đảng. Tại Hội nghị, Ban Xứ ủy Bắc Kỳ và Trung Kỳ được bầu ra gồm các đồng chí Thiết (Hoàng Văn Nọn tức Tú Hưu, nhiều tài liệu chép là Hoàn Văn Nõn), Nguyễn Văn Minh, Tô Hiệu, Đinh Xuân Nhạ (Trần Quý Kiên)... do đồng chí Thiết (Hoàng Văn Nọn) làm Bí thư.
Bí thư Thành ủy Hà Nội năm 27 tuổi
Được sự quan tâm chỉ đạo trực tiếp của Xứ ủy Bắc Kỳ đối với Hà Nội, ngay sau khi thành lập lại, Thành ủy Hà Nội đã khẩn trương bắt tay vào xây dựng và phát triển cơ sở đảng; vận động quần chúng tích cực triển khai, chắp mối bắt liên lạc với những đảng viên đang hoạt động ở Hà Nội; điều động thêm cán bộ, đảng viên tăng cường vào các xí nghiệp, nhà máy, các ngành nghề và về các vùng nông thôn ngoại thành. Thành ủy thường xuyên tổ chức các lớp huấn luyện, bồi dưỡng, đào tạo cán bộ và kết nạp đảng viên mới. “Năm 1938, cơ quan lãnh đạo Thành ủy được kiện toàn, đồng chí Trần Quý Kiên (tức Đinh Xuân Nhạ) làm Bí thư Thành ủy; bổ sung thêm 2 đảng viên đang hoạt động trong phong trào công nhân là đồng chí Nguyễn Văn Trân và đồng chí Văn Tiến Dũng vào Thành ủy” [23].
Trong hồi ký "Đi theo con đường của Bác", Đại tướng Văn Tiến Dũng có nói đến việc được đồng chí Đinh Xuân Nhạ (Trần Quý Kiên), Bí thư Thành ủy Hà Nội kết nạp vào Đảng và được đồng chí Nhạ dẫn đến gặp Tổng Bí thư Nguyễn Văn Cừ: “Anh Nhạ (Trần Quý Kiên) lúc đó mở một cửa hàng sửa xe đạp ở gần Bến Nứa, đường bờ sông… Hoàn toàn không một ai lúc đó, nếu không phải là đảng viên có trách nhiệm, có thể biết được đây lại là một đồng chí trong Thường vụ Thành ủy Hà Nội (Thành ủy Hà Nội vừa mới được khôi phục lại năm trước). Anh Nhạ phụ trách về tổ chức, chuyên đi xây dựng lại và tổ chức mới những chi bộ Đảng trong công nhân và lao động [24], tổ chức các lớp bồi dưỡng về chính trị, chỉ đạo phối hợp đấu tranh của thanh niên công nhân trong phong trào Ái hữu.
Một buổi, anh Nhạ - Bí thư Thành ủy Hà Nội giới thiệu, tôi biết đó là anh Nguyễn Văn Cừ. Tôi đã được nghe nói về anh, đồng chí Tổng bí thư mới của Đảng. Tôi vui mừng và cảm động hết sức về buổi gặp mặt đầu tiên này. Đồng chí Tổng bí thư gặp tôi lần này để hỏi thêm một số điều trong phong trào công nhân ở Hà Nội, đồng thời cũng trực tiếp chỉ thị cho tôi về hoạt động trong tình hình đã có thay đổi khác trước…” [25].
Lúc này, Trung ương, Xứ ủy và Thành ủy có chủ trương đấu tranh đòi thành lập các hội ái hữu, để họ đoàn kết lại tranh đấu chống áp bức bóc lột, đòi quyền lợi thiết thực hằng ngày của họ [26]. Nhiều hội Ái hữu được thành lập ở Hà Nội. Dưới sự lãnh đạo của Thành ủy Hà Nội, các hội Ái hữu được Nghiệp đoàn ái hữu trực tiếp chỉ đạo nên phong trào đấu tranh của nhân dân lao động Hà Nội lên rất cao.
Đồng chí Đinh Xuân Nhạ (Trần Quý Kiên), Ủy viên Thường vụ Xứ ủy, làm Bí thư Thành ủy Hà Nội từ năm 1938. Trong lý lịch tự khai, năm 1952, đồng chí Trần Quý Kiên viết: “Tháng 2-1938, tôi được Đảng điều động về Hà Nội, phụ trách các hội Ái hữu của thợ mộc, thông phong, thợ mũ và Nhà máy Gia Lâm”.
Đồng chí Trần Quý Kiên cùng Chủ tịch Hồ Chí Minh đạp guồng nước chống úng tại cánh đồng xã Hiệp Lực, huyện Ninh Giang, tỉnh Hải Dương.
Đại tướng Văn Tiến Dũng trong hồi ký "Đi theo con đường" của Bác viết: “Chúng tôi đã sống trong những ngày hoạt động đầy niềm vui và hy vọng ở một ngày mai tươi sáng, một cuộc đời hạnh phúc và tự do. Chúng tôi cũng đã có những quan hệ công việc hoặc phối hợp hoạt động với các hội Ái hữu các ngành khác trong phong trào Ái hữu khi ấy. Chúng tôi đã gặp và làm việc với anh Trần Quốc Hoàn và anh Nguyễn Văn Trân (Ái hữu thợ in), anh Hà Kế Tấn (Ái hữu ngành mộc), anh Nguyễn Đức Thuận (Ái hữu thông phong)… Các anh, chị đều là những người lãnh đạo có uy tín của các hội Ái hữu ấy” [27].
Tháng 4-1938, theo quyết định của Hội nghị toàn thể Ban Chấp hành Trung ương (tháng 3-1938), Xứ ủy Trung Kỳ được thành lập; ba tỉnh Bắc Trung Kỳ là Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh được đặt dưới sự lãnh đạo của Xứ ủy Trung Kỳ. Liên Xứ ủy Bắc Kỳ - Bắc Trung Kỳ giải thể, Xứ ủy Bắc Kỳ được lập lại, đồng chí Hoàng Văn Nọn làm Bí thư [28]. Từ giữa năm 1938, khi Chính phủ Pháp ngày càng ngả về phía hữu, chính quyền thuộc địa ở Đông Dương bắt đầu thực hiện chính sách khủng bố những hoạt động dân chủ, Xứ ủy Bắc Kỳ bị đánh phá và chịu nhiều tổn thất.
Tháng 5-1939, Xứ ủy Bắc Kỳ lại tổ chức Hội nghị bàn về công tác xây dựng tổ chức Đảng, đặc biệt là ở những địa phương tập trung công nhân, mở rộng huấn luyện chính trị trong nội bộ Đảng, xuất bản sách, báo. Thực hiện chủ trương đó, từ tháng 6 đến tháng 8-1939, Xứ ủy cử cán bộ về xây dựng và củng cố các cơ sở ở vùng Hòn Gay, Đông Triều... đồng thời củng cố cơ sở ở Bắc Ninh, Bắc Giang, xây dựng đường dây liên lạc giữa Xứ ủy lên biên giới, lên vùng Cát Trù [29] (Cẩm Khê, Phú Thọ) - để chuẩn bị cơ sở đưa cán bộ về hoạt động.
Cuối năm 1938 đến nửa đầu năm 1939, đồng chí Trần Quý Kiên, Thường vụ Xứ ủy Bắc Kỳ, Bí thư Thành ủy Hà Nội, do bị lộ (nhiều lần bị khám nhà), “đồng chí Kiên rút về cơ sở khác” [30]. Đồng chí Trần Quý Kiên viết: “Cuối năm 1938, bị mật thám khám nhà bắt được tài liệu bí mất. Và chúng gọi xuống Sở mật thám luôn để dọa nạt, dụ dỗ (vì là thời kỳ Chính phủ Bình dân nên chúng không bỏ tù và truy tố được)… Đầu năm 1939, tôi (tức Đinh Xuân Nhạ - Trần Quý Kiên) được chỉ định vào Ban Chấp hành Xứ, cùng làm việc với đồng chí Hoàng Văn Thụ và đồng chí Lương Khánh Thiện” [31].
Theo lý lịch tự khai của đồng chí Trần Quý Kiên cũng cho biết: “Sợ bị lộ bí mật và có hại nên Đảng đã trao những việc mà tôi phụ trách trên cho các đồng chí khác. Nhà máy Gia Lâm thì trao cho đồng chí Hoàn (tức Trần Quốc Hoàn)”. Tháng 8-1939, Xứ ủy Bắc Kỳ mở Hội nghị đại biểu các đảng bộ trong xứ tại bãi Phúc Xá (Hà Nội), bàn các biện pháp tranh thủ điều kiện còn cho phép tiếp tục mở rộng Mặt trận dân chủ, đồng thời chuẩn bị đề phòng chính quyền thuộc địa đàn áp.
Cuối năm 1939, đồng chí Trần Quý Kiên viết: “Chiến tranh (thế giới) lần thứ 2 bùng nổ, tôi và đồng chí Lương Khánh Thiện lên Phú Thọ. Hai người có trách nhiệm gây cơ sở kinh tế một thời gian, Đảng sẽ đưa đi nơi khác” [32]. Sách Lịch sử Đảng bộ tỉnh Phú Thọ viết: “Một tháng sau (9-1939), đồng chí Lương Khánh Thiện, Ủy viên Ban Thường vụ Xứ ủy, Trần Quý Kiên và Nguyễn Thành Diên, Xứ ủy viên, đã lên Cát Trù - Thạch Đê hoạt động. Tập hợp số thanh niên đã được giác ngộ từ thời kỳ Mặt trận Dân chủ làm nòng cốt, các đồng chí Xứ ủy đã mở rộng tuyên truyền ra các đối tượng khác… Nhằm mở rộng địa bàn, mở rộng cơ sở ra các vùng trong tỉnh, đồng chí Lương Khánh Thiện và Trần Quý Kiên - đến Thái Ninh (Thanh Ba) liên lạc với đồng chí Quốc Thuy (Tuân), tập hợp số đảng viên ở đây, thành lập chi bộ Thái Ninh (tiền thân của Đảng bộ tỉnh Phú Thọ)” [33]. Chi bộ gồm những đảng viên hoạt động công khai ở Hà Nội và các tỉnh vùng xuôi thời kỳ Mặt trận Dân chủ, bị địch khủng bố rút về Thái Ninh, không có đảng viên là người địa phương.
Đồng chí Trần Quý Kiên tại cuộc mít tinh của nhân dân Hưng Yên chào mừng Chủ tịch Hồ Chí Minh về thăm và tặng cờ thi đua.
Ở cương vị Bí thư Thành ủy Hà Nội trong khoảng thời gian hoạt động rất nhiều khó khăn (1938-1939), nhưng ở chính vào điểm nút của thời kỳ chuyển hướng chiến lược quan trọng từ công khai hợp pháp sang bí mật, đồng chí Trần Quý Kiên đã góp phần giữ vững ngọn lửa cách mạng của các tầng lớp nhân dân Hà Nội trong những ngày tháng đấu tranh của cao trào 1936-1939. Dưới sự lãnh đạo của Xứ ủy Bắc Kỳ, Thành ủy Hà Nội nói chung và vai trò của các đồng chí Trần Quý Kiên nói riêng, từ cuối năm 1936 đến trước Chiến tranh thế giới thứ hai (1939), tổ chức Đảng được thiết lập trong 17/29 tỉnh, thành phố ở Bắc Kỳ [34]. Trong đó có những địa bàn trực tiếp như Hà Đông, Sơn Tây do đồng chí Trần Quý Kiên lãnh đạo tổ chức và gây dựng.
Nhận trách nhiệm lãnh đạo Thành ủy [35] giữa lúc phong trào cách mạng cả nước nói chung, Hà Nội nói riêng đang ở vào giai đoạn cuối của cuộc đấu tranh hợp pháp nửa công khai, đồng chí Trần Quý Kiên cùng Thành ủy với sự chỉ đạo chặt chẽ của Xứ ủy đã khéo léo lợi dụng giai đoạn “đệm” ấy để tiếp tục duy trì thúc đẩy một số cuộc đấu tranh, tập dượt quần chúng chuẩn bị bước vào một thời kỳ đấu tranh mới.
Chính nhờ thành công của công tác xây dựng hệ thống tổ chức Đảng, xây dựng cơ quan lãnh đạo của Xứ ủy Bắc Kỳ và Thành ủy Hà Nội trong giai đoạn từ nửa cuối năm 1936 đến trước tháng 9-1939, với công lao đóng góp của đồng chí Trần Quý Kiên, đã chuẩn bị tốt công tác đề phòng, chuẩn bị tình hình xấu có thể diễn ra, khó tránh khỏi, nên khi Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ, thực dân Pháp thi hành chính sách thời chiến, bóp nghẹt các quyền tự do dân chủ vừa mới đấu tranh giành được. Xứ ủy Bắc Kỳ và Thành ủy Hà Nội đã hạn chế được nhiều tổn thất, các cán bộ lãnh đạo chủ chốt của Xứ ủy và Thành ủy sau đó đóng vai trò chủ yếu trong tái lập cơ quan Trung ương ở giai đoạn sau này.
Đồng chí Trần Quý Kiên được Chủ tịch nước truy tặng Huân chương Sao vàng năm 2018. Ảnh: Gia đình cung cấp
Như vậy, dưới sự lãnh đạo của Xứ ủy Bắc Kỳ và Thành ủy Hà Nội với vai trò lãnh đạo của đồng chí Trần Quý Kiên, Bí thư Thành ủy Hà Nội và hàng chục cán bộ của Đảng được đào tạo ra từ phong trào đấu tranh trong giai đoạn 1936-1939. Khi Chiến tranh thế giới thứ hai nổ ra (9-1939), Xứ ủy Bắc Kỳ và Thành ủy Hà Nội đã chuẩn bị một bộ phận rút vào bí mật trong lúc sự thế gấp rút và tổ chức cơ sở của Đảng chưa ổn định. Chính cũng do đó, sau cuộc đàn áp của thực dân Pháp, Đảng đã có thể tập hợp cán bộ và nhân dân chuyển giai đoạn đấu tranh mới. “Phong trào (dân chủ 1936-1939) công khai bị thực dân Pháp hạ màn, những quyền lợi của nhân dân vừa giành được lại bị bọn phản động thuộc địa cướp giật lại. Nhưng nó đã đẩy cuộc đấu tranh cách mạng tiến lên một bậc, đã để lại những hạt giống tư tưởng của chủ nghĩa xã hội gieo rắc rộng rãi nhiều nơi, chờ ngày trổ hoa kết quả, mà một cơn mưa gió nặng nề do thực dân Pháp gây ra không thể tàn phá hết được” [36].
NGUYỄN VĂN BIỂU, Viện Sử học, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam
---------------------------------------------------------------
[1] Cao trào 1930-1931, giai đoạn 1932-1935 hay được gọi là thoái trào.
[2] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, tập 5, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, tr.322.
[3] Đặng Việt Châu, Trường học cuộc đời (Hồi ký), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, tr.76.
[4] Ngày 16-9-1936, báo Le Travail (Lao Động) ra mắt bạn đọc và đặt trụ sở tại số 28 phố Nguyễn Trãi (nay là Nguyễn Quang Bích (Hà Nội).
[5] Lý lịch của đồng chí Trần Quý Kiên tại Ban Tổ chức Trung ương ngày 15-8-1952, tr.6.
[6] Viện Sử học, Hồi ký Trần Huy Liệu, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1991, tr.201. Nguyên văn đồng chí Trần Huy Liệu viết nhầm là “Trần Văn Nhạ” chúng tôi sửa lại cho đúng là Đinh Xuân Nhạ (Trần Quý Kiên)
[7] Ban Chấp hành Đảng bộ Thành phố Hà Nội, Lịch sử Đảng bộ Thành phố Hà Nội (1930-2000), Nxb. Hà Nội, 2004, tr.62.
[8] Nguyễn Văn Minh tức Nguyễn Văn Phong, tên Nga là Pala học viên trường Đại học Đông Phương, được Trung ương Đảng cử về Hà Nội từ tháng 8-1936, giúp khôi phục lại cơ sở Đảng. Sau làm Chánh án Tòa án dân sự, Tòa án Nhân dân tối cao.
[9] Nguyễn Văn Minh, Kỷ niệm sâu sắc về đồng chí Nguyễn Văn Cừ, in trong: Nguyễn Văn Cừ - Nhà lãnh đạo xuất sắc - một tấm gương Cộng sản mẫu mực, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2012, tr.293.
[10] Nguyễn Văn Minh, Kỷ niệm sâu sắc về đồng chí Nguyễn Văn Cừ, Sđd, tr.294.
[11] Lịch sử Đảng bộ Thành phố Hà Nội (1930-2000), Sđd, tr.62.
[12] Trần Trọng Thơ, Những cống hiến của đồng chí Nguyễn Văn Cừ đối với cách mạng Việt Nam những năm 1936-1941, Tạp chí Lịch sử Đảng, số 7-2022, tr.8.
[13] Nguyễn Văn Minh, Kỷ niệm sâu sắc về đồng chí Nguyễn Văn Cừ, Sđd, tr.294.
[14] Trịnh Nhu (chủ biên), Lịch sử biên niên Đảng Cộng sản Việt Nam, tập II, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2013, tr.553.
[15] Nguyễn Văn Cừ tiểu sử, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2007, tr.102-103.
[16] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, tập 6, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2002, tr.300.
[17] Các sách, tài liệu còn chép khác nhau về sự kiện này.
[18] Viện Lịch sử Đảng, Biên niên sự kiện Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, tập 1 (1930 - 9/1945), Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tr.273.
[19] Ban Chấp hành Đảng bộ Thành phố Hà Nội, Lịch sử Đảng bộ Thành phố Hà Nội, tập 1 (1926 -1945), Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2012, tr.142.
[20] Trần Trọng Thơ, Xây dựng cơ quan lãnh đạo cấp Trung ương, Xứ ủy của đảng thời kỳ 1930 - 1945, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2014, tr.146.
[21] Trịnh Nhu (chủ biên), Lịch sử biên niên Đảng Cộng sản Việt Nam, tập II, Sđd, tr.554.
[22] Xác nhận của Viện Lịch Sử đảng, ngày 14-4-2016, Về chức vụ trong Xứ ủy Bắc Kỳ trước Cách mạng tháng Tám năm 1945 của đồng chí Trần Quý Kiên (tức Đinh Xuân Nhạ). Năm 1938, đồng chí Trần Quý Kiên là Thường vụ Xứ ủy Bắc Kỳ cho đến khi bị bắt năm 1940.
[23] Lịch sử Đảng bộ thành phố Hà Nội (1930-2000), Sđd, tr.70.
[24] Đại tướng Văn Tiến Dũng, Đi theo con đường của Bác (hồi ký), Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2004, tr.36
[25] Đi theo con đường của Bác (hồi ký), Sđd, tr.36, 55-56.
[26] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, tập 6, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tr.154
[27] Đại tướng Văn Tiến Dũng, Đi theo con đường của Bác (hồi ký), Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2004, tr.35.
[28] Xây dựng cơ quan lãnh đạo cấp Trung ương, Xứ ủy của đảng thời kỳ 1930 - 1945, Sđd, tr.148.
[29] Đây là địa bàn của cuộc khởi nghĩa của Đề Kiều cuối thế kỷ XIX ở tỉnh Hưng Hóa (nay là tỉnh Phú Thọ).
[30] Ban Chấp hành Đảng bộ quận Ba Đình, Lịch sử Đảng bộ quận Ba Đình (1930 - 2005), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005, tr.78.
[31] Lý lịch của đồng chí Trần Quý Kiên tại Ban Tổ chức Trung ương ngày 15-8-1952, tr.8-9.
[32] Lý lịch của đồng chí Trần Quý Kiên tại Ban Tổ chức Trung ương ngày 15-8-1952, tr.8-9.
[33] Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Phú Thọ, Lịch sử Đảng bộ tỉnh Phú Thọ, tập 1 (1939-1968), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tr.59-60.
[34] Xây dựng cơ quan lãnh đạo cấp Trung ương, Xứ ủy của đảng thời kỳ 1930 - 1945, Sđd, tr.150.
[35] Theo Ban Chấp hành Đảng bộ Thành phố Hà Nội, Ban Tuyên giáo, Những chiến sĩ cộng sản ưu tú và cơ sở cách mạng của Hà Nội (tập 1), Nxb Hà Nội, 2006, tr.73 cho biết “Cuối năm 1938, đồng chí Trần Quý Kiên được cử làm Bí thư Thành ủy Hà Nội đến đầu tháng 9/1939”.
[36] Trần Huy Liệu, Lịch sử tám mươi năm chống Pháp, Quyển thứ hai, tập thượng, Ban Nghiên cứu Văn Sử Địa xuất bản, 1958, tr.154.