Động lực mềm kiến tạo hệ sinh thái sáng tạo văn hóa Việt

Động lực mềm kiến tạo hệ sinh thái sáng tạo văn hóa Việt
6 giờ trướcBài gốc
Theo định nghĩa của UNESCO, “các ngành công nghiệp văn hóa” là những ngành sản xuất, tái sản xuất, lưu trữ và phân phối các sản phẩm, dịch vụ văn hóa được bảo vệ bởi bản quyền. Đây là khu vực kinh tế có tốc độ tăng trưởng nhanh, đóng góp lớn vào GDP và việc làm ở nhiều quốc gia.
Chương trình “Anh trai vượt ngàn chông gai” đã gây nên hiệu ứng mạnh mẽ, tích cực trong lòng công chúng. Ảnh: K.TRINH
Tại Việt Nam, tinh thần của Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng và các văn kiện gần đây đã khẳng định: Phát triển công nghiệp văn hóa (CNVH) là yêu cầu cấp thiết nhằm khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc, với văn hóa là nền tảng tinh thần, là “sức mạnh mềm” nâng cao vị thế quốc gia. Theo dự thảo Chiến lược phát triển các ngành CNVH đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, Việt Nam đặt mục tiêu các ngành này sẽ đóng góp ít nhất 7% GDP đến năm 2030. Đến năm 2045, phấn đấu doanh thu đóng góp 9% GDP và thu hút 6 triệu lao động để trở thành quốc gia phát triển về CNVH trong khu vực châu Á; khẳng định vị thế của Việt Nam trên bản đồ công nghiệp văn hóa thế giới.
Để đạt được khát vọng đó, cần một hệ sinh thái đồng bộ, trong đó báo chí giữ vai trò dẫn dắt nhận thức, khơi nguồn sáng tạo và lan tỏa giá trị văn hóa. Là thiết chế thông tin chủ lực trong xã hội, báo chí không chỉ phản ánh hiện thực văn hóa - nghệ thuật, mà còn kiến tạo thị hiếu thẩm mỹ, quảng bá sản phẩm sáng tạo, cổ vũ nghệ sĩ, thúc đẩy chính sách... Đặc biệt, trong bối cảnh chuyển đổi số và truyền thông mới phát triển mạnh mẽ, báo chí còn có thêm vai trò chiến lược trong định hình dư luận văn hóa số - một không gian ngày càng quan trọng đối với sự phát triển của các ngành CNVH.
Báo chí và truyền thông đại chúng giữ vai trò then chốt trong việc khơi nguồn sáng tạo văn hóa và lan tỏa khát vọng phát triển quốc gia. Thông qua truyền tải, tạo nên những làn sóng thông tin về các sự kiện văn hóa, nghệ thuật, giải trí đến công chúng, báo chí nâng cao nhận thức và tạo sự quan tâm đối với các hoạt động văn hóa. Không chỉ quảng bá sản phẩm văn hóa, báo chí còn định hướng, giúp công chúng hiểu biết sâu sắc hơn về nền văn hóa dân tộc.
Qua đó, truyền thông hình thành một cộng đồng văn hóa đa dạng, phong phú, nơi những ý tưởng sáng tạo mới được nuôi dưỡng và lan tỏa. Báo chí truyền thông trở thành cầu nối gắn kết quá khứ với hiện tại, trong nước với quốc tế, truyền cảm hứng để toàn xã hội cùng chung tay xây dựng nền công nghiệp văn hóa sáng tạo, giàu bản sắc.
Vai trò tổng quát của báo chí, truyền thông đại chúng đối với CNVH
Báo chí được coi là mặt trận văn hóa - tư tưởng xung kích, đóng góp trực tiếp vào việc xây dựng môi trường thuận lợi cho CNVH phát triển. Bên cạnh việc truyền bá tri thức và giá trị văn hóa, báo chí còn tạo diễn đàn thảo luận về các vấn đề văn hóa đương đại. Những tranh luận, phản biện trên mặt báo về bảo tồn di sản, phát triển điện ảnh, âm nhạc hay gìn giữ bản sắc trong hội nhập… giúp định hình dư luận xã hội theo hướng tích cực, cầu thị. Tiếng nói từ báo chí góp phần thúc đẩy nhà quản lý lắng nghe ý kiến đa chiều, hoàn thiện chính sách văn hóa phù hợp thực tiễn. Báo chí thực sự là cầu nối quan trọng để văn hóa được phản ánh nhiều hơn trong các chính sách, pháp luật và thảo luận xã hội. Từ đó, khát vọng phát triển đất nước bằng “sức mạnh mềm” văn hóa dần được hiện thực hóa, khi cả hệ thống chính trị và nhân dân đồng thuận đầu tư, thúc đẩy phát triển CNVH.
Đặc biệt, báo chí truyền thông góp phần khơi nguồn sáng tạo bằng cách tôn vinh các tài năng và ý tưởng mới. Việc thường xuyên đăng tải chân dung nghệ sĩ sáng tạo, nhà thiết kế khởi nghiệp, phim độc lập giành giải thưởng hay các sản phẩm âm nhạc đặc sắc... tạo động lực to lớn cho cộng đồng sáng tạo trẻ noi theo. Đây chính là tiền đề để hình thành hệ sinh thái sáng tạo, nơi báo chí giữ vai trò kết nối các hạt nhân sáng tạo và thôi thúc những thử nghiệm, đổi mới trong nghệ thuật.
Hai concert đình đám trong năm 2024 là Anh trai say hi Anh trai vượt ngàn chông gai không chỉ tạo dấu ấn thành công chưa từng có về các sự kiện âm nhạc quy mô mà còn trở thành hiện tượng truyền thông mạnh mẽ, mang về nguồn doanh thu lớn. Với sự hỗ trợ của báo chí và truyền thông, chương trình đã thu hút sự chú ý rộng rãi, góp phần định vị Việt Nam như một điểm đến âm nhạc tiềm năng trên bản đồ khu vực và thế giới.
Lễ hội Thiết kế sáng tạo Hà Nội 2024 cũng đã trở thành một sự kiện văn hóa nổi bật nhờ sự hỗ trợ đắc lực của báo chí và truyền thông. Với hơn 100 hoạt động sáng tạo thuộc 12 lĩnh vực CNVH, lễ hội đã thu hút gần 300.000 lượt khách tham quan, góp phần lan tỏa tinh thần sáng tạo và đổi mới trong cộng đồng. Công trình Bảo tàng Lịch sử quân sự Việt Nam mới mở cửa từ cuối năm 2024 nhưng nhanh chóng trở thành điểm đến tạo sức thu hút với đông đảo du khách trong và ngoài nước, thay đổi quan niệm và cách nhìn về truyền thông bảo tàng. Các đợt truyền thông rầm rộ về những thành phố của Việt Nam tham gia Mạng lưới các thành phố sáng tạo toàn cầu của UNESCO cũng tạo hiệu ứng mạnh mẽ, thu hút hàng triệu lượt du khách mỗi năm đến với Hà Nội, Đà Lạt, Hội An để khám phá và trải nghiệm.
Truyền thông chính sách văn hóa
Trong lĩnh vực chính sách, báo chí giữ vai trò cầu nối hai chiều giữa cơ quan quản lý và công chúng, đảm bảo các chủ trương về phát triển văn hóa - CNVH được hiểu đúng và ủng hộ rộng rãi. Thực tế cho thấy, khi Chính phủ ban hành Chỉ thị về phát triển các ngành CNVH, các cơ quan báo chí đã nhanh chóng mở chuyên mục phân tích, phổ biến nội dung chiến lược, từ đó giúp công chúng biết, hiểu và ủng hộ chính sách.
Để truyền thông chính sách hiệu quả, báo chí thường xuyên phối hợp chặt chẽ với các Bộ, ngành liên quan. Nhà nước cũng có cơ chế đặt hàng truyền thông đối với các đề án văn hóa lớn, đảm bảo nguồn lực tài chính cho báo chí tham gia tuyên truyền chính sách văn hóa một cách chuyên nghiệp. Chẳng hạn, trong Đề án quảng bá văn hóa đọc, Chương trình số hóa di sản, cơ quan chủ trì đã ký kết với cơ quan báo chí để thực hiện loạt chương trình, chuyên trang về nội dung này. Cách làm đó giúp thông điệp chính sách lan tỏa sâu rộng, đúng đối tượng, đồng thời huy động được sự tham gia của giới trí thức, văn nghệ sĩ đóng góp ý kiến trên các phương tiện truyền thông.
Mặt khác, báo chí cũng thực hiện chức năng giám sát, phản biện trong lĩnh vực văn hóa. Những bất cập trong quản lý lễ hội, tình trạng vi phạm bản quyền, môi trường sáng tác hạn chế, hợp tác công - tư… đều được báo chí phát hiện, phản ánh kịp thời, từ đó tác động để các cơ quan chức năng điều chỉnh chính sách phù hợp. Chính nhờ vai trò này của truyền thông mà nhiều điểm nghẽn trong phát triển CNVH đã được tháo gỡ trên cơ sở tiếp thu ý kiến dư luận. Báo chí, với quyền năng thông tin và định hướng, thực sự trở thành công cụ thực thi chính sách mềm dẻo - vừa tuyên truyền định hướng, vừa lắng nghe phản hồi - tạo nên môi trường chính sách văn hóa minh bạch, hiệu quả.
Chuyển đổi số trong truyền thông văn hóa
Sự phát triển như vũ bão của công nghệ số đang mở ra cơ hội chưa từng có cho báo chí và truyền thông trong việc quảng bá văn hóa, đồng thời đặt ra yêu cầu phải chuyển đổi số mạnh mẽ. Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Chiến lược chuyển đổi số báo chí đến 2025, tầm nhìn 2030, tạo tiền đề để các cơ quan báo chí đầu tư công nghệ, nâng cao năng lực số. Nhờ đó, báo chí có thể mở rộng phạm vi tác động, làm chủ dòng chảy thông tin, dẫn dắt và định hướng thị hiếu khán giả trong kỷ nguyên số.
Trên thực tế, hầu hết các tòa soạn, đài truyền hình lớn ở Việt Nam đã xây dựng nền tảng đa phương tiện cho nội dung văn hóa. Một tác phẩm báo chí về văn hóa giờ đây có thể đồng thời xuất hiện dưới dạng bài viết trên báo điện tử, phóng sự phát trên TV, video clip ngắn trên mạng xã hội và thậm chí podcast phát thanh. Việc “đa dạng hóa định dạng” này nhằm tiếp cận hiệu quả hơn với từng nhóm độc giả khác nhau, qua đó lan tỏa thông điệp văn hóa rộng rãi hơn.
Song song đó, các cơ quan truyền thông đang tích cực xây dựng hạ tầng tương tác số với khán giả. Nhiều tờ báo đã phát triển ứng dụng di động, tính năng bình luận, diễn đàn bạn đọc trực tuyến… tạo điều kiện để khán giả trao đổi, đóng góp ý kiến về các sự kiện văn hóa. Việc phản hồi nhanh chóng các ý kiến, tương tác thường xuyên trên mạng xã hội giúp báo chí xây dựng được cộng đồng người đọc trung thành quanh chủ đề văn hóa.
Chẳng hạn, chuyên trang Văn hóa của một tờ báo điện tử có thể có nhóm Facebook riêng cho những người quan tâm điện ảnh Việt; ở đó phóng viên tương tác với độc giả, tổ chức mini game về kiến thức phim ảnh… Những cách làm này biến độc giả từ thụ động tiếp nhận thành người tham gia sáng tạo nội dung, làm phong phú thêm dòng chảy thông tin văn hóa.
Tuy nhiên, chuyển đổi số cũng đặt ra thách thức về bộ lọc thông tin trong môi trường truyền thông mới. Internet và mạng xã hội là mảnh đất màu mỡ để quảng bá văn hóa tới giới trẻ, nhưng cũng dễ bị nhiễu loạn bởi các bình luận lệch lạc, thông tin sai sự thật. Do đó, báo chí phải tận dụng công nghệ để không chỉ lan tỏa nhanh mà còn kiểm chứng thông tin chặt chẽ, giữ vững niềm tin của công chúng. Nhiều tòa soạn đã ứng dụng trí tuệ nhân tạo (AI) hỗ trợ kiểm tra dữ kiện, hoặc thiết lập nhóm chuyên trách phản bác tin giả trong lĩnh vực văn hóa. Điều này giúp đảm bảo dòng thông tin về công nghiệp văn hóa trên không gian số luôn lành mạnh, định hướng tích cực cho cộng đồng mạng.
Người dùng đang xem clip TikTok về đồ ăn, minh chứng cho khả năng đưa nội dung dân gian, ẩm thực nhanh chóng đến công chúng và lan tỏa sâu rộng
Vai trò của KOLs và Influencers trong truyền thông văn hóa
Trong kỷ nguyên mạng xã hội, KOLs (Key Opinion Leaders - những người có tầm ảnh hưởng lớn trên các nền tảng số) đã trở thành lực lượng quan trọng trong việc lan tỏa nội dung văn hóa. Sức hút cá nhân của họ giúp đưa thông điệp văn hóa đến gần hơn với công chúng, đặc biệt là thế hệ trẻ. Không thể phủ nhận, đội ngũ KOLs chính là lực lượng truyền thông mới, có thể góp phần quảng bá hiệu quả hình ảnh quốc gia trên không gian mạng. Vai trò của KOLs thể hiện rõ ở nhiều chiến dịch văn hóa thời gian qua.
Ví dụ, trong lĩnh vực di sản, Quỹ Di sản văn hóa Việt Nam đã hợp tác với nền tảng TikTok, mời các nhà sáng tạo nội dung nổi tiếng thực hiện video ngắn giới thiệu di sản văn hóa khắp các vùng miền. Nhờ đó, di sản đã đến với giới trẻ bằng góc nhìn mới mẻ, tạo trào lưu check-in di sản, tham quan bảo tàng ảo hết sức sôi động.
Trong lĩnh vực du lịch, vai trò KOLs lại càng nổi bật. Cục Du lịch Quốc gia Việt Nam những năm qua thường xuyên mời các travel bloggers và người nổi tiếng làm đại sứ hình ảnh. Họ tham gia các chuyến đi thực tế do ngành Du lịch tổ chức, quay vlog, chụp ảnh và chia sẻ trải nghiệm thực tế trên mạng xã hội. Một ví dụ tiêu biểu là chiến dịch quảng bá ẩm thực và du lịch Việt Nam, mà ở đó, ngôi sao David Beckham (cựu cầu thủ bóng đá) được mời nếm thử món ăn đường phố Hà Nội và chia sẻ trên trang cá nhân. Sự xuất hiện của những KOLs tầm cỡ mang lại hiệu ứng truyền thông lớn, báo chí quốc tế cũng đưa tin, giúp quảng bá văn hóa - du lịch Việt Nam ra toàn cầu.
Tuy nhiên, việc sử dụng KOLs cũng đòi hỏi chiến lược khéo léo. Các KOLs văn hóa cần được định hướng nội dung phù hợp, tránh sa đà vào scandal hoặc quảng cáo phản cảm. Cơ quan quản lý và báo chí nên hỗ trợ, đồng hành cùng KOLs bằng cách cung cấp thông tin chính thống, xác thực để họ truyền tải tới giới trẻ một cách chính xác.
Chẳng hạn, khi quảng bá di sản, KOL cần tư liệu chuẩn về lịch sử, thay vì chỉ nêu cảm nhận cá nhân. Một số ý kiến đề xuất cơ quan văn hóa kết nối và đào tạo KOLs về kiến thức văn hóa nền tảng, hoặc thậm chí xây dựng “KOL ảo” để chủ động truyền thông thông điệp nhạy cảm. Dù dưới hình thức nào, KOLs - rõ ràng đã và sẽ là “mắt xích” quan trọng nối truyền thông đại chúng với mạng xã hội, đưa nội dung, các sản phẩm cụ thể của CNVH len lỏi vào đời sống thường ngày một cách tự nhiên, hấp dẫn.
Truyền thông xã hội và xu hướng mới lan tỏa văn hóa
Sự bùng nổ của mạng xã hội đã thay đổi cục diện truyền thông văn hóa, tạo ra những xu hướng truyền thông mới mẻ và đa chiều. Ngày nay, bất cứ ai cũng có thể trở thành người sáng tạo nội dung văn hóa trên Facebook, YouTube, TikTok... Những đoạn clip ngắn về một điệu múa cổ, một món ăn dân gian... hoàn toàn có khả năng nhanh chóng lan tỏa đến đông đảo công chúng và tạo thành trào lưu (trend) trên mạng. Thực tế, các nền tảng này đã sản sinh nhiều hiện tượng văn hóa đại chúng, đơn cử như trường hợp từ trào lưu nhảy “Cô Ba Sài Gòn” trên TikTok đã đưa áo dài xưa trở lại.
Truyền thông xã hội cho phép tương tác tức thì và phản hồi đa chiều, giúp nội dung văn hóa được mổ xẻ, sáng tạo lại không ngừng. Ví dụ, sau khi một bộ phim lịch sử phát sóng trên VTV, ngay lập tức trên YouTube xuất hiện các video parody (nhái hài) hay các buổi livestream thảo luận về nội dung phim.
Trên Facebook, khán giả lập nhóm để cùng bàn luận tình tiết, thậm chí sáng tác fan-art, fan-fiction dựa trên phim. Những hoạt động này tuy không chính thống nhưng lại thể hiện văn hóa được tiếp nhận một cách sáng tạo và chủ động, biến người xem thành đồng sáng tạo. Báo chí chính thống nếu biết tận dụng sẽ có thể khai thác các xu hướng này để làm phong phú nội dung, ví dụ viết bài tổng hợp hiện tượng fan sáng tác từ bộ phim, qua đó thu hút lượng lớn người đọc là fan trên mạng xã hội.
Mạng xã hội cũng giúp xóa nhòa ranh giới giữa khán giả nội địa và quốc tế hay kết nối gần hơn giữa nghệ sĩ và công chúng. Nhiều nghệ sĩ trẻ đã nổi tiếng toàn cầu nhờ mạng xã hội như ca sĩ Sơn Tùng M-TP từng lọt top trending YouTube thế giới; hay gần đây là MV Bắc Bling của Hòa Minzy chỉ sau một thời gian ngắn ra mắt đã đứng vị trí Top 1 “MV ra mắt ấn tượng nhất toàn cầu” trên YouTube Charts thế giới.
Chương trình Anh trai say hi đã tận dụng hiệu quả các nền tảng truyền thông để kết nối nghệ sĩ với công chúng. Sự kiện này không chỉ được phát sóng trên các kênh truyền hình mà còn lan tỏa mạnh mẽ trên mạng xã hội, thu hút hàng triệu lượt xem và tạo nên sức hút lớn đối với giới trẻ. Đây chính là “công nghiệp văn hóa 2.0”, nơi sản phẩm được sinh ra trên nền tảng số và lan truyền bằng hiệu ứng mạng. Các cơ quan truyền thông và quản lý văn hóa cần nghiên cứu sâu những hiện tượng này để có cách hỗ trợ, định hướng kịp thời.
Tuy vậy, truyền thông xã hội cũng tồn tại mặt trái: Tin giả, nội dung phản cảm có thể lan truyền nếu thiếu kiểm soát. Đã có trường hợp video bôi xấu văn hóa Việt hoặc trào lưu độc hại ảnh hưởng đến giới trẻ. Giải pháp ở đây là phải kết hợp “sức đề kháng” văn hóa cho người dùng và sự hiện diện mạnh mẽ của các nội dung chính thống. Do đó, báo chí, truyền thông nhà nước cần chủ động hơn nữa trên không gian mạng - liên tục bắt trend văn hóa mới một cách văn minh, từ đó dẫn dắt dư luận và thị hiếu người dùng theo hướng tích cực, có lợi cho phát triển công nghiệp văn hóa nước nhà.
Đề xuất, kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả truyền thông văn hóa
Để báo chí và truyền thông phát huy hơn nữa vai trò trong thúc đẩy các ngành CNVH, xin có một số giải pháp, kiến nghị đề xuất như sau:
Tăng cường phối hợp chính sách và huy động nguồn lực: Cần thiết lập cơ chế phối hợp chặt chẽ giữa cơ quan quản lý, chủ trì về các ngành CNVH và các cơ quan báo chí ngay từ khâu xây dựng chiến lược, chính sách. Cần có chương trình đặt hàng truyền thông dài hạn về chủ đề CNVH, qua đó cung cấp kinh phí ổn định để báo chí chủ động sản xuất nội dung chất lượng cao về văn hóa.
Thúc đẩy chuyển đổi số toàn diện trong truyền thông văn hóa: Các cơ quan báo chí cần tiếp tục đầu tư hạ tầng công nghệ và đào tạo nhân lực để hiện thực hóa mục tiêu báo chí đa nền tảng. Đích đến là xây dựng hệ sinh thái truyền thông văn hóa số, trong đó nội dung được cá nhân hóa theo nhu cầu từng nhóm đối tượng và phân phối qua kênh phù hợp. Cần có sự hỗ trợ kết nối các đơn vị để hình thành mạng lưới chuyển đổi số báo chí, chia sẻ kinh nghiệm và công nghệ giữa các tòa soạn. Song song, cần xây dựng bộ chỉ số đo lường để đánh giá hiệu quả truyền thông văn hóa trên không gian số, làm căn cứ điều chỉnh chiến lược nội dung phù hợp.
Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực báo chí văn hóa: Yêu cầu đặt ra là phải có đội ngũ phóng viên, biên tập viên am hiểu sâu về văn hóa và kỹ năng truyền thông hiện đại. Bộ VHTTDL có thể phối hợp với Hội Nhà báo Việt Nam mở các lớp tập huấn, bồi dưỡng chuyên đề về công nghiệp văn hóa cho nhà báo. Các trường đại học báo chí nên bổ sung học phần về quản trị truyền thông văn hóa, xu hướng truyền thông số…
Phát huy vai trò của KOLs và cộng đồng sáng tạo nội dung: Truyền thông hiện đại là truyền thông mở, do vậy không chỉ báo chí mà cả mạng lưới KOLs, influencer cần được huy động tham gia quảng bá văn hóa. Nghiên cứu thiết lập quỹ hỗ trợ sáng tạo nội dung số về văn hóa, tài trợ cho những dự án làm phim ngắn, sáng tác âm nhạc, vlog… có chất lượng. Đồng thời, kết nối các KOLs yêu văn hóa thành một mạng lưới, định kỳ cung cấp thông tin, tư liệu cho họ khai thác. Chính phủ có thể đồng hành với KOLs bằng cách mời họ tham gia các sự kiện văn hóa lớn với tư cách đại sứ, qua đó tận dụng sức lan tỏa cá nhân.
Đa dạng hóa hình thức và nội dung quảng bá CNVH: Tiếp tục tìm kiếm những cách làm sáng tạo, kết hợp văn hóa với công nghệ, thể thao, giáo dục… để truyền thông hấp dẫn hơn. Ví dụ: game hóa nội dung di sản, tổ chức cuộc thi TikTok về trang phục dân tộc, lồng ghép quảng bá điểm đến văn hóa trong các giải chạy marathon quốc tế… Mỗi sáng kiến mới mẻ sẽ mở rộng thêm tệp khán giả quan tâm văn hóa. Báo chí và các công ty truyền thông nên chủ động đề xuất ý tưởng với cơ quan văn hóa, doanh nghiệp để cùng thực hiện những chiến dịch “phá cách” như vậy. Việc liên kết liên ngành sẽ giúp CNVH thoát khỏi lối mòn, tiến gần hơn đến đời sống giới trẻ và thị trường quốc tế.
Báo chí và truyền thông là động lực mềm nhưng mạnh mẽ để thúc đẩy CNVH phát triển, qua đó khơi dậy sáng tạo và lan tỏa khát vọng xây dựng một nước Việt Nam giàu bản sắc, phồn vinh. Trong bối cảnh hội nhập quốc tế và cách mạng công nghiệp 4.0, nhiệm vụ này lại càng quan trọng và đòi hỏi sự đổi mới không ngừng từ những người làm truyền thông. Với những định hướng và giải pháp đề ra, tin rằng báo chí và truyền thông Việt Nam sẽ ngày càng phát huy hiệu quả vai trò của mình. Một nền CNVH sáng tạo, giàu bản sắc và vươn tầm thế giới sẽ không thể thiếu sự đồng hành của hệ sinh thái truyền thông chuyên nghiệp, hiện đại. Báo chí và truyền thông chính là cánh tay nối dài đưa văn hóa Việt bay xa, góp phần hiện thực hóa khát vọng phát triển đất nước phồn vinh bằng sức mạnh văn hóa dân tộc.
TS NGUYỄN ANH VŨ
Nguồn Văn hóa : http://baovanhoa.vn/bao-chi/dong-luc-mem-kien-tao-he-sinh-thai-sang-tao-van-hoa-viet-144291.html