Năng lượng tái tạo - Hướng đi tất yếu cho sự phát triển
Trong bối cảnh nhu cầu năng lượng của nền kinh tế ngày càng tăng nhanh, trong khi nguồn cung truyền thống như than, dầu khí dần cạn kiệt và phải phụ thuộc vào nhập khẩu, câu chuyện đầu tư vào năng lượng mới, năng lượng tái tạo trở thành yêu cầu cấp bách. Tại Diễn đàn “Đầu tư phát triển năng lượng hướng tới mục tiêu tăng trưởng kinh tế cao và bền vững” diễn ra ngày 21/8, TS. Nguyễn Quốc Thập, Chủ tịch Hội Dầu khí Việt Nam, đã chỉ rõ những cơ hội, thách thức cũng như giải pháp để Việt Nam thực hiện thành công cam kết Net Zero vào năm 2050.
TS. Nguyễn Quốc Thập, Chủ tịch Hội Dầu khí Việt Nam. Ảnh: BTC
TS. Nguyễn Quốc Thập phân tích giai đoạn 2010-2022, tổng nguồn cung năng lượng sơ cấp của Việt Nam tăng trung bình 5,6% mỗi năm, đạt gần 98,9 triệu tấn dầu quy đổi vào năm 2022 (bao gồm khai thác trong nước và xuất/nhập khẩu). Riêng năm 2022, sơ cấu năng lượng cho thấy than chiếm tới 43,7%, dầu chiếm 27,7% trong khi năng lượng tái tạo, bao gồm thủy điện, mới chỉ đạt 21,1%. Ông Thập nhấn mạnh đây là một cơ cấu mất cân đối, thể hiện sự phụ thuộc lớn vào nhiên liệu hóa thạch.
Tính đến cuối năm 2024, tổng công suất nguồn điện toàn hệ thống đạt 84.360 MW. Trong đó, nhiệt điện than vẫn chiếm hơn một phần ba, thủy điện gần 28%, năng lượng tái tạo gần 27%, còn lại là khí, dầu và các nguồn khác. Theo ông Thập, bức tranh này cho thấy Việt Nam vẫn đặt gánh nặng vào than, dầu khí - những nguồn năng lượng vừa gây ô nhiễm môi trường, vừa tiềm ẩn rủi ro an ninh năng lượng khi trữ lượng trong nước dần suy giảm.
Trong khi đó, thủy điện đã gần như khai thác tối đa tiềm năng. Sản xuất nội địa không đủ, Việt Nam phải nhập khẩu nhiên liệu, mà giá than, dầu, khí trên thế giới lại biến động khó lường do địa chính trị. Từ thực tế đó, ông Thập khẳng định: “Việc chuyển dịch sang năng lượng tái tạo và năng lượng mới như điện gió, điện mặt trời, sinh khối hay hydro xanh là tất yếu để bảo đảm an ninh năng lượng và thực hiện mục tiêu phát thải ròng bằng “0” vào năm 2050”.
Cơ hội, thách thức và giải pháp cho phát triển năng lượng mới
Theo Quy hoạch tổng thể về năng lượng quốc gia và Quy hoạch Điện VIII điều chỉnh, các loại hình năng lượng tái tạo và năng lượng mới được ưu tiên phát triển bao gồm điện gió trên bờ và ngoài khơi, điện mặt trời, sinh khối, thủy điện nhỏ, năng lượng hạt nhân, thủy triều, địa nhiệt, cùng các nguồn mới như hydro, amoniac.
Mục tiêu đặt ra là đến năm 2030, tăng tỷ lệ năng lượng tái tạo (không bao gồm thủy điện) trong cơ cấu nguồn điện lên khoảng 28 - 36% vào năm 2030 và định hướng đến năm 2050, tỷ lệ này sẽ đạt mức ấn tượng 74 - 75%. Riêng nguồn điện gió trên bờ và gần bờ đến năm 2030 vào khoảng 26.066 - 38.029 MW; điện gió ngoài khơi: 6.000 - 17.032 MW (vận hành giai đoạn 2030 - 2035); điện mặt trời: 46.459 - 73.416 MW.
Phát triển năng lượng mới là hướng đi tất yếu, là xu thế không thể tách rời với sự phát triển của đất nước. Ảnh: Bộ Công Thương
Tuy nhiên, theo Chủ tịch Hội Dầu khí Việt Nam, con đường phát triển này không dễ dàng. Một trong những nguyên nhân là do nhu cầu năng lượng tăng nhanh hơn tốc độ phát triển hạ tầng, trong khi cơ chế, chính sách khuyến khích và đồng bộ cho đầu tư vào điện khí LNG, điện gió, điện mặt trời hay pin lưu trữ còn thiếu. Hệ thống truyền tải, phân phối chưa theo kịp sự bùng nổ của các dự án năng lượng tái tạo. Đặc biệt, phát triển hydro xanh đòi hỏi nguồn vốn khổng lồ cho công nghệ điện phân, lưu trữ và thủy điện tích năng. Thị trường điện hiện nay chưa phù hợp với yêu cầu phát triển, cơ chế mua bán điện trực tiếp giữa nhà sản xuất và khách hàng vẫn còn nhiều vướng mắc, trong khi xã hội hóa đầu tư đấu nối, truyền tải chưa có cơ chế rõ ràng.
Mặc dù vậy, ông Thập cho rằng, cơ hội dành cho Việt Nam là rất lớn. Các mục tiêu chiến lược đã được Chính phủ và Quốc hội cụ thể hóa trong quy hoạch, tốc độ tăng trưởng kinh tế cao tạo động lực tiêu thụ năng lượng, các tổ chức tài chính quốc tế sẵn sàng cấp vốn cho dự án xanh và sự quan tâm của nhà đầu tư trong và ngoài nước đang ngày càng mạnh mẽ. Chính phủ, Thủ tướng và các bộ, ngành cũng đang chủ động tháo gỡ điểm nghẽn về thủ tục pháp lý để giải phóng dòng vốn.
Từ đó, TS. Nguyễn Quốc Thập đề xuất ba nhóm giải pháp. Trước hết là đột phá về tư duy, coi hạ tầng năng lượng quan trọng như hạ tầng giao thông, để nhà đầu tư và cơ quan quản lý “ngồi chung một con thuyền” cùng hướng tới mục tiêu chung. Thứ hai là hoàn thiện khung pháp lý, quán triệt các nghị quyết của Bộ Chính trị, bổ sung luật, nghị định để hiện thực hóa Quy hoạch Điện VIII và Quy hoạch năng lượng quốc gia, đồng thời xây dựng thị trường carbon và cơ chế định giá khí thải. Thứ ba là rà soát, đồng bộ hóa các quy hoạch tổng thể và ngành, đảm bảo hạ tầng đấu nối, truyền tải và khu công nghiệp tiêu thụ điện được phát triển nhất quán với quy hoạch nguồn năng lượng.
TS. Nguyễn Quốc Thập nhấn mạnh, đầu tư vào năng lượng mới và năng lượng tái tạo không chỉ là yêu cầu cấp thiết để bảo đảm an ninh năng lượng, mà còn là chìa khóa để Việt Nam hiện thực hóa khát vọng tăng trưởng cao và bền vững trong kỷ nguyên mới. Với sự đồng hành của Chính phủ, sự quan tâm của nhà đầu tư và nguồn lực quốc tế, ông tin tưởng Việt Nam có thể hình thành một nền kinh tế năng lượng xanh, góp phần quan trọng vào nỗ lực toàn cầu chống biến đổi khí hậu.