Dự án điện hạt nhân cần được coi là công trình quốc gia đặc biệt

Dự án điện hạt nhân cần được coi là công trình quốc gia đặc biệt
10 giờ trướcBài gốc
PV: Việc đầu tư xây dựng các nhà máy ĐHN tại Việt Nam đòi hỏi nguồn vốn lớn. Ông có thể cho biết, Chính phủ và các doanh nghiệp dự kiến sẽ huy động vốn như thế nào để thực hiện các dự án này?
TS Nguyễn Anh Tuấn
TS Nguyễn Anh Tuấn: Vốn đầu tư cho mỗi nhà máy ĐHN là lớn hơn so với các loại hình nguồn điện khác. Suất đầu tư danh nghĩa, tùy theo mỗi quốc gia về khả năng làm chủ công nghệ, dao động từ 2,7 (Trung Quốc) tới hơn 6 tỉ USD (châu Âu) cho quy mô nhà máy 1.000 MW. Với quy mô dự kiến 2 nhà máy ĐHN ban đầu tại Ninh Thuận là 2 x 2.400 MW, cần có nguồn vốn khoảng 24 tỉ USD (trung bình 5 tỉ USD/1.000 MW), hay khoảng hơn 600 nghìn tỉ VNĐ. Khi tính đủ các chi phí lãi vay vốn, lãi vay trong quá trình xây dựng, đền bù giải phóng mặt bằng, hạ tầng đi kèm, chi phí tư vấn, đào tạo nhân lực…, vốn có thể tăng thêm 10-15%.
Theo ý kiến riêng của tôi, đối với vốn cho xây dựng ĐHN, do chúng ta chưa làm chủ công nghệ, ngoài nguồn vốn trong nước đối ứng, chủ yếu sẽ là vốn vay từ các đối tác cung cấp công nghệ thiết bị, thông qua hình thức như: dùng vốn ngân sách ứng trước; Chính phủ bảo lãnh để doanh nghiệp vay; vốn tín dụng cấp hàng; huy động tín dụng các ngân hàng trong nước. Các hình thức huy động vốn khác có thể từ phát hành trái phiếu Chính phủ, trái phiếu doanh nghiệp, vay ưu đãi từ các đối tác truyền thống, hoặc sử dụng vốn vay ưu đãi từ các tổ chức hỗ trợ chuyển dịch năng lượng.
PV: Ngoài nguồn vốn từ ngân sách Nhà nước, liệu Việt Nam có thể huy động thêm vốn từ các tổ chức tài chính quốc tế hoặc các đối tác tư nhân không? Đồng thời, phải làm sao để bảo đảm tính bền vững trong việc huy động vốn cho các dự án ĐHN thưa ông?
TS Nguyễn Anh Tuấn: Việt Nam có thể huy động thêm vốn từ các tổ chức tài chính quốc tế hỗ trợ chuyển dịch năng lượng như đã nói trên. Nhưng sẽ khó sử dụng vốn vay từ tư nhân, vì ĐHN là an ninh năng lượng quốc gia và giảm phát thải. Hiệu quả kinh tế của ĐHN là cần thiết, nhưng mục tiêu không đơn thuần chỉ là kinh tế.
Kinh nghiệm quốc tế cho thấy rút ngắn được thời gian thi công sẽ giảm thiểu đáng kể phát sinh chi phí vốn. Ở châu Âu thời gian xây dựng một dự án ĐHN thường là 6-7 năm. Trung Quốc đã hoàn thành xây dựng ĐHN trong chỉ hơn 5 năm. Nhưng cũng có những quốc gia có dự án ĐHN kéo dài hàng chục năm, thậm chí hủy dự án vì đội vốn do kéo dài thời gian xây dựng.
Như vậy, tôi cho là chúng ta cần coi dự án ĐHN là công trình quốc gia hạng đặc biệt, ưu tiên. Khi đã triển khai xây dựng ĐHN cần huy động đủ nguồn lực cần thiết, vừa làm vừa hoàn thiện các thủ tục pháp lý, các quy định theo thông lệ quốc tế, quy định của Cơ quan Năng lượng Nguyên tử Quốc tế (IAEA), vừa đào tạo nhân lực, “vừa xếp hàng vừa chạy”. Hệ thống lãnh đạo, chỉ đạo và thực hành cần thông suốt, lường trước và tháo gỡ ngay các vướng mắc. Đồng thời, cần chọn đối tác chuyển giao công nghệ thực sự cùng vào cuộc.
Thủ tướng Chính phủ kỳ vọng chúng ta hoàn thành xây dựng một dự án ĐHN trước 31-12-2030, nghĩa là thời gian chuẩn bị đầu tư và xây dựng chỉ có 5 năm 9 tháng. Đây là thách thức lớn khi chúng ta chưa làm chủ công nghệ. Hoàn thành xây dựng trong thời gian gấp rút đã khó, nhưng quan trọng nhất là sau khi xây dựng, nhà máy ĐHN phải được vận hành an toàn và có hiệu quả kinh tế. Như vậy mới có thể tiếp tục huy động vốn một cách bền vững cho các dự án ĐNH tiếp sau.
Dự án điện hạt nhân cần được coi là công trình quốc gia đặc biệt
PV: Thưa ông, chính sách và quy định của Việt Nam đối với phát triển năng lượng hạt nhân hiện nay như thế nào? Những thay đổi chính sách nào có thể ảnh hưởng đến tiến trình xây dựng nhà máy ĐHN?
TS Nguyễn Anh Tuấn: Bên cạnh việc huy động nguồn vốn, các chính sách của chúng ta với ĐHN cần chú trọng hai vấn đề lớn.
Thứ nhất, “quyết tâm chính trị”. Bài học này đã trải qua khi chúng ta dừng chương trình phát triển ĐHN vào năm 2016, sau hàng chục năm tập trung nghiên cứu, chuẩn bị. Khi Việt Nam tái khởi động ĐHN đã khẳng định quyết tâm của lãnh đạo Đảng và Nhà nước, chứng tỏ sự cần thiết và vai trò của ĐHN trong bảo đảm an ninh năng lượng kết hợp với phát triển bền vững trong bối cảnh mới. Kỳ vọng quyết tâm chính trị sẽ được kế tục qua các nhiệm kỳ của Chính phủ. Đây là bài học thành công của một số quốc gia có ĐHN, Pháp là một ví dụ.
Thứ hai, ĐHN cần thiết do Nhà nước độc quyền xây dựng, ít nhất trong hơn thập niên sắp tới. Nếu viện cớ về cạnh tranh, mở rộng đối tượng tham gia xây dựng ĐHN để mang hiệu quả kinh tế thường đem lại hậu quả kéo dài dự án, cản trở mục tiêu chung của chương trình, quan trọng nhất là gây nguy cơ mất an toàn cho con người và hạ tầng cơ sở. Mỹ là quốc gia tự do hóa để các công ty tư nhân tham gia các gói thầu của dự án ĐHN, nhưng bài học cũng cho thấy một số dự án bị kéo dài, đội vốn do không kiểm soát được đồng bộ quá trình và xung đột lợi ích kinh tế của các bên tham gia.
PV: Hiện nay Việt Nam có đủ nhân lực có trình độ chuyên môn cao để tham gia vào việc xây dựng và vận hành nhà máy ĐHN không? Nếu không, theo ông làm thế nào để giải quyết vấn đề thiếu hụt nhân lực?
TS Nguyễn Anh Tuấn: Hiện Việt Nam có rất ít chuyên gia về công nghệ ĐHN và an toàn hạt nhân. Trong giai đoạn đầu của dự án, bên cạnh việc tận dụng nguồn lực hạn chế trong nước, việc tham gia của tư vấn nước ngoài là bắt buộc để có thể bổ sung khuyết thiếu cũng như giúp các cán bộ Việt Nam được học hỏi, tích lũy kinh nghiệm.
Bên cạnh đó, cần triển khai ngay một chương trình nghiên cứu khoa học và công nghệ quốc gia về công nghệ và an toàn ĐHN nhằm nâng cao năng lực nội tại trong nước, hướng tới quản lý vận hành an toàn và hiệu quả, cũng như tiếp thu công nghệ phục vụ lâu dài các dự án ĐHN. Đào tạo đội ngũ chuyên gia về công nghệ và an toàn hạt nhân để có đủ năng lực dự báo, phòng ngừa và xử lý các vấn đề liên quan đến an toàn (nếu có xảy ra) đòi hỏi thời gian dài với một kế hoạch đào tạo bài bản, từng bước.
Đội ngũ chuyên gia về ĐHN là thiết yếu và vô cùng quan trọng để có thể vận hành an toàn và kinh tế các nhà máy ĐHN. Do đó, chúng ta cần tiếp tục đào tạo thêm các kỹ sư về ĐHN để khi hoàn thành công việc xây dựng nhà máy ĐHN Ninh Thuận, lúc đó các kỹ sư chuyên ngành ĐHN cũng cần tốt nghiệp, ra trường để bổ sung vào lực lượng vận hành.
PV: Xin cảm ơn ông!
Chúng ta cần coi dự án ĐHN là công trình quốc gia hạng đặc biệt, ưu tiên. Khi đã triển khai xây dựng ĐHN cần huy động đủ nguồn lực cần thiết, vừa làm vừa hoàn thiện các thủ tục pháp lý, các quy định theo thông lệ quốc tế, vừa đào tạo nhân lực, “vừa xếp hàng vừa chạy”. Hệ thống lãnh đạo, chỉ đạo và thực hành cần thông suốt, lường trước và tháo gỡ ngay các vướng mắc.
Đình Khương
Nguồn PetroTimes : https://petrotimes.vn/du-an-dien-hat-nhan-can-duoc-coi-la-cong-trinh-quoc-gia-dac-biet-724579.html