Theo ông, chính sách lãi suất của Mỹ sẽ tác động như thế nào đến chính sách lãi suất của Việt Nam những tháng cuối năm 2025?
Chính sách điều hành lãi suất của Ngân hàng Nhà nước về cơ bản phục vụ ba mục tiêu trọng yếu: Thứ nhất, ổn định tỷ giá; Thứ hai, kiểm soát lạm phát; Thứ ba, hỗ trợ tăng trưởng kinh tế. Trong từng giai đoạn, mức độ ưu tiên giữa các mục tiêu này có thể thay đổi.
Từ năm 2022 đến nay, diễn biến tỷ giá đã trở thành yếu tố then chốt chi phối chính sách lãi suất trong nước. Điển hình là trong năm 2022, Fed tăng lãi suất đến 7 lần, với tổng mức tăng 4 điểm phần trăm. Điều này đã tạo ra áp lực rất lớn lên tỷ giá USD/VND. Có thời điểm trong năm 2022, VND mất giá hơn 8% so với USD.
Để ứng phó, Ngân hàng Nhà nước đã buộc phải nâng lãi suất điều hành hai lần trong năm 2022, với tổng mức tăng 2 điểm phần trăm. Đồng thời, trong quý II/2022, Ngân hàng Nhà nước đã bán can thiệp 22,8 tỷ USD từ dự trữ ngoại hối. Thông qua việc bán USD, Ngân hàng Nhà nước đã rút ròng khoảng 540.000 tỷ đồng ra khỏi hệ thống ngân hàng, khiến thanh khoản suy giảm mạnh. Hệ quả là mặt bằng lãi suất huy động và cho vay trong nước tăng vọt. Nếu như đầu năm 2022, mặt bằng lãi suất huy động phổ biến ở mức 6,0 - 6,5%/năm thì đến thời điểm cuối năm đã tăng lên quanh 10%.
Đến năm 2025, bối cảnh đã có nhiều thay đổi nhưng câu chuyện lãi suất của Fed vẫn là một biến số lớn. Trong kỳ họp tháng 7 vừa qua, Fed tiếp tục giữ nguyên lãi suất điều hành, đánh dấu kỳ họp thứ năm liên tiếp không điều chỉnh. Lần cuối cùng Fed hạ lãi suất là vào tháng 12/2024. Sự thận trọng này phản ánh lo ngại về tác động của các biện pháp thuế quan lên lạm phát, đặc biệt khi chỉ số giá tiêu dùng tháng 6 tại Mỹ cho thấy giá cả các mặt hàng tiêu dùng nhập khẩu như giày dép, đồ chơi, đồ gia dụng đang tăng mạnh do chi phí đầu vào cao hơn.
Tuy vậy, thị trường vẫn kỳ vọng Fed sẽ cắt giảm lãi suất hai lần trong ba kỳ họp còn lại của năm nay. Lý do là nền kinh tế Mỹ được dự báo sẽ suy yếu nhanh hơn khi tác động của thuế quan ngấm dần vào tiêu dùng và thị trường việc làm.
Trong kịch bản nền kinh tế Mỹ suy yếu nhanh hơn dự kiến, Fed có thể cắt giảm lãi suất tới ba lần trong năm nay, đưa lãi suất điều hành về mức 3,5 - 3,75%/năm. Nếu điều này xảy ra, đây có thể là điều kiện để Ngân hàng Nhà nước cân nhắc giảm lãi suất chính sách, cụ thể là đưa lãi suất tái cấp vốn từ 4,5%/năm hiện nay về 4%/năm, tương đương mức trước chu kỳ tăng lãi suất của Fed.
Tuy nhiên, cần nhấn mạnh rằng, ngay cả khi Fed bắt đầu giảm lãi suất trở lại, thì tác động đến mặt bằng lãi suất trong nước sẽ tương đối hạn chế. Nguyên nhân chính là do áp lực tỷ giá hiện nay của Việt Nam vẫn cao và áp lực này không đến từ kỳ vọng thay đổi lãi suất của Mỹ, mà chủ yếu xuất phát từ yếu tố cung - cầu ngoại tệ trong nước.
Về phía cung, nguồn ngoại tệ đang có dấu hiệu suy giảm, khi thặng dư thương mại hàng hóa trong 6 tháng đầu năm 2025 chỉ đạt 7,6 tỷ USD, thấp hơn nhiều so với mức 12,1 tỷ USD cùng kỳ năm 2024. Ở phía cầu, nhu cầu ngoại tệ lại gia tăng do Việt Nam duy trì xu hướng giảm ròng nợ vay nước ngoài ở cả khu vực Chính phủ và tư nhân. Cụ thể, năm 2024, Việt Nam trả ròng hơn 6,7 tỷ USD nợ vay dài hạn nước ngoài và riêng quý I/2025, con số này đã là hơn 1,8 tỷ USD. Thêm vào đó, trong bối cảnh bất ổn địa chính trị và căng thẳng thương mại thế giới, khối FDI có xu hướng gia tăng chuyển lợi nhuận về nước. Năm 2024, dòng lợi nhuận chuyển về nước từ khối FDI lên tới 21,2 tỷ USD và riêng quý I/2025 đã đạt 7,2 tỷ USD.
Những yếu tố này đang gây áp lực lớn lên tỷ giá và do đó, Ngân hàng Nhà nước sẽ cần thận trọng trong việc nới lỏng chính sách tiền tệ. Việc để cho thanh khoản tiền đồng dư thừa quá mức, trong khi cung - cầu ngoại tệ không thuận lợi có thể dẫn đến nguy cơ mất giá mạnh của VND.
Với mức tăng trưởng 7,5% trong 6 tháng đầu năm thì để đạt mục tiêu 8% trong cả năm 2025, kinh tế Việt Nam sẽ cần đạt tăng trưởng ít nhất 8,3% trong 2 quý tới. Kinh tế Việt Nam tăng trưởng vẫn dựa vào nguồn vốn của hệ thống ngân hàng là chính, vậy lãi suất có nên giảm để hỗ trợ mục tiêu này?
Ước tính phần lớn nhu cầu vốn đầu tư khoảng 2,3 triệu tỷ đồng năm 2025 của khối tư nhân sẽ được tài trợ bởi hệ thống ngân hàng thương mại.
Trong bối cảnh bất ổn bên ngoài kéo dài, đầu tư, đặc biệt là đầu tư tư nhân, đang đóng vai trò trụ cột trong việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế Việt Nam. Ước tính, tổng nhu cầu vốn đầu tư toàn xã hội trong năm 2025 sẽ vượt 4,2 triệu tỷ đồng; trong đó, khu vực tư nhân đóng góp hơn 2,3 triệu tỷ đồng. Điều đáng lưu ý là phần lớn nhu cầu vốn đầu tư này của khu vực tư nhân vẫn đang được tài trợ chủ yếu bởi hệ thống ngân hàng thương mại. Do đó, cầu tín dụng trong nền kinh tế đang gia tăng nhanh chóng.
Tính đến ngày 30/6/2025, tín dụng toàn hệ thống đã tăng 9,9% so với cuối năm 2024. Đây là mức tăng trưởng lũy kế 6 tháng đầu năm cao nhất trong vòng 15 năm qua (giai đoạn 2011 - 2025).
Tuy nhiên, cung tiền tiếp tục tăng chậm hơn so với tín dụng. Trong 5 tháng đầu năm 2025, tổng phương tiện thanh toán chỉ tăng 5,9%, thấp hơn mức tăng 6,7% của tín dụng. Đáng chú ý, tiền gửi, một kênh huy động vốn chủ yếu, chỉ tăng 2,4%, buộc các ngân hàng thương mại phải tiếp tục dựa vào phát hành giấy tờ có giá để bổ sung nguồn vốn.
Một yếu tố khác cũng đang góp phần làm thu hẹp cung tiền là việc Ngân hàng Nhà nước tiếp tục bán ngoại tệ để can thiệp thị trường ngoại hối. Trong quý I/2025, Ngân hàng Nhà nước đã bán ra gần 1,7 tỷ USD để cân đối nhu cầu ngoại tệ trong nước, khi nguồn cung ngoại tệ suy yếu như đã phân tích ở trên. Với cơ chế đồng nội tệ được hút ra tương ứng trong quá trình bán ngoại tệ, việc can thiệp này cũng đã tác động làm giảm cung tiền.
Với sự lệch pha rõ rệt giữa tăng trưởng tín dụng và tăng trưởng cung tiền, có thể thấy dư địa để các ngân hàng thương mại tiếp tục giảm lãi suất là rất hạn chế. Trong bối cảnh như vậy, việc đảm bảo khả năng cung ứng vốn cho nền kinh tế và đồng thời duy trì mặt bằng lãi suất ổn định như hiện tại đã là một nỗ lực đáng kể.
Để giảm lãi suất, vai trò của các cơ quan quản lý là gì?
Như đã phân tích ở trên, khả năng tiếp tục giảm mặt bằng lãi suất trong nước hiện nay không còn nhiều và nếu có thì phần lớn sẽ phụ thuộc vào các điều kiện bên ngoài hơn là yếu tố nội tại. Trong bối cảnh đó, vai trò của cơ quan quản lý, đặc biệt là Ngân hàng Nhà nước, là rất quan trọng trong việc cân bằng các mục tiêu vĩ mô: vừa ổn định tỷ giá, kiểm soát lạm phát, vừa đảm bảo hỗ trợ tăng trưởng kinh tế.
Trong trường hợp môi trường bên ngoài chuyển biến tích cực hơn, cụ thể là nếu chính sách thuế quan dần ổn định và không tạo ra bất lợi cạnh tranh cho Việt Nam so với các nước khác, dòng vốn đầu tư nước ngoài, bao gồm cả đầu tư trực tiếp (FDI) và gián tiếp (FII), sẽ có khả năng cải thiện rõ rệt. Bên cạnh đó, khi yếu tố bất định vĩ mô giảm đi, tâm lý găm giữ ngoại tệ trong nền kinh tế cũng sẽ giảm theo, từ đó góp phần gia tăng cung ngoại tệ trên thị trường trong nước. Điều này sẽ tạo điều kiện cho Ngân hàng Nhà nước có thể mua vào ngoại tệ để tăng dự trữ ngoại hối. Khi Ngân hàng Nhà nước mua ngoại tệ, lượng tiền đồng được bơm ra thị trường sẽ tăng theo, từ đó giúp mở rộng cung tiền nội tệ, một yếu tố quan trọng giúp tạo dư địa cho việc hạ lãi suất trong nước.
Tuy nhiên, bên cạnh vai trò điều tiết của Ngân hàng Nhà nước, việc giảm lãi suất và duy trì ổn định vĩ mô đòi hỏi sự phối hợp đồng bộ từ các bộ, ngành liên quan.
Cụ thể, cần tập trung nguồn lực vào các dự án đầu tư công trọng điểm có tính lan tỏa cao, tránh tình trạng đầu tư dàn trải làm giảm hiệu quả sử dụng vốn và tạo thêm áp lực lên thị trường vốn. Song song đó, các chính sách cải thiện môi trường đầu tư cần được ưu tiên triển khai nhằm nâng cao khả năng thu hút dòng vốn đầu tư nước ngoài, đặc biệt trong các lĩnh vực công nghệ cao, chuyển đổi xanh và hạ tầng chiến lược.
Bên cạnh đó, cần chủ động triển khai các giải pháp thúc đẩy xuất khẩu, đa dạng hóa thị trường và nâng cao năng lực cạnh tranh cho hàng hóa Việt Nam. Đây là những yếu tố then chốt không chỉ giúp cải thiện cán cân thương mại, mà còn góp phần ổn định cán cân thanh toán tổng thể và củng cố nền tảng vĩ mô cho các chính sách tiền tệ hỗ trợ tăng trưởng.
Các ngân hàng thương mại cũng đóng vai trò rất quan trọng trong việc tái cơ cấu danh mục cho vay, nâng cao năng lực quản trị rủi ro, và phân bổ nguồn vốn một cách hợp lý. Dù việc duy trì mặt bằng lãi suất ở mức thấp và ổn định là điều kiện cần cho tăng trưởng, nhưng điều kiện đủ lại nằm ở chất lượng phân bổ vốn. Việc bảo đảm dòng vốn được ưu tiên cho các lĩnh vực có giá trị gia tăng cao như sản xuất, công nghệ cao hay chuyển đổi xanh, thay vì tập trung quá nhiều vào các khu vực tiềm ẩn rủi ro bong bóng tài sản, mới là yếu tố then chốt giúp duy trì tốc độ tăng trưởng bền vững trong trung và dài hạn.
Hồng Dung thực hiện.