Cụ thể chính sách này như sau:
Điều kiện hưởng chế độ thai sản của lao động nữ sinh con, lao động nữ mang thai hộ, người mẹ nhờ mang thai hộ và người lao động nhận nuôi con nuôi dưới 6 tháng tuổi thuộc đối tượng quy định tại điểm a khoản 1 Điều 2 Thông tư này được thực hiện theo quy định tại khoản 2, khoản 3 và khoản 5 Điều 50 Luật Bảo hiểm xã hội và hướng dẫn như sau:
1. Lao động nữ sinh con thuộc trường hợp trước đó phải nghỉ việc để điều trị vô sinh thì điều kiện hưởng chế độ thai sản khi sinh con là đã đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc từ đủ 6 tháng trở lên trong thời gian 24 tháng liền kề trước khi sinh con.
Ví dụ 1: Đồng chí Đại úy Hà Thị Quyên có thời gian đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc liên tục từ tháng 9-2010 đến tháng 8-2025. Do hiếm muộn, đồng chí Quyên xin nghỉ việc để đi điều trị vô sinh, đến tháng 1-2027 đồng chí Quyên sinh con; trong khoảng thời gian 24 tháng trước khi sinh (tính từ tháng 1-2025 đến tháng 12-2026) đồng chí Quyên có 8 tháng đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc (tính từ tháng 1-2025 đến tháng 8-2025). Như vậy, đồng chí Quyên đủ điều kiện hưởng chế độ thai sản khi sinh con.
2. Thời gian 12 tháng hoặc 24 tháng liền kề trước khi sinh con hoặc nhận con khi nhờ mang thai hộ hoặc nhận nuôi con nuôi dưới 6 tháng tuổi xác định như sau:
a) Trường hợp lao động nữ sinh con hoặc người lao động nhận con khi nhờ mang thai hộ hoặc nhận nuôi con nuôi trước ngày 15 của tháng, thì tháng sinh con hoặc nhận nuôi con nuôi không tính vào thời gian 12 tháng hoặc 24 tháng trước khi sinh con hoặc nhận con khi nhờ mang thai hộ hoặc nhận nuôi con nuôi.
Ví dụ 2: Đồng chí Thượng úy Nguyễn Thị Vân, sinh con ngày 12-11-2025, thời gian 12 tháng trước khi sinh con được tính từ tháng 11-2024 đến tháng 10-2025.
b) Trường hợp lao động nữ sinh con hoặc người lao động nhận con khi nhờ mang thai hộ hoặc nhận nuôi con nuôi từ ngày 15 trở đi của tháng và tháng đó có đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc, thì tháng sinh con hoặc nhận nuôi con nuôi được tính vào thời gian 12 tháng hoặc 24 tháng trước khi sinh con hoặc nhận con khi nhờ mang thai hộ hoặc nhận nuôi con nuôi. Trường hợp tháng đó không đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc thì thực hiện theo quy định tại điểm a khoản này.
Ví dụ 3: Đồng chí Thượng úy Nguyễn Thị Vân (ví dụ 2) nếu sinh con ngày 18-11-2025, thời gian 12 tháng trước khi sinh con được tính như sau:
- Nếu tháng 11-2025 có đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc thì 12 tháng trước khi sinh tính từ tháng 12-2024 đến tháng 11-2025.
- Nếu tháng 11-2025 không đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc thì 12 tháng trước khi sinh tính từ tháng 11-2024 đến tháng 10-2025.
3. Trong thời gian trở lại làm việc trước khi hết thời gian nghỉ việc hưởng chế độ thai sản khi sinh con mà lao động nữ phải nghỉ việc để đi khám thai, sảy thai, phá thai, thai chết trong tử cung, thai chết trong khi chuyển dạ, thai ngoài tử cung, thực hiện các biện pháp tránh thai thì được hưởng chế độ thai sản theo quy định tại Điều 51, Điều 52 và Điều 57 Luật Bảo hiểm xã hội.
4. Điều kiện hưởng trợ cấp một lần khi sinh con, nhận con khi nhờ mang thai hộ hoặc nhận con nuôi dưới 6 tháng tuổi thực hiện theo quy định tại Điều 58 Luật Bảo hiểm xã hội và hướng dẫn như sau:
a) Đối với trường hợp chỉ có người cha tham gia bảo hiểm xã hội hoặc cả cha và mẹ cùng tham gia bảo hiểm xã hội nhưng người mẹ không đủ điều kiện để hưởng chế độ thai sản khi sinh con thì người cha đã đóng bảo hiểm xã hội từ đủ 6 tháng trở lên trong thời gian 12 tháng trước khi người mẹ sinh con được trợ cấp một lần.
b) Trường hợp người mẹ nhờ mang thai hộ và người mang thai hộ không tham gia bảo hiểm xã hội hoặc có tham gia bảo hiểm xã hội nhưng không đủ điều kiện hưởng chế độ thai sản, thì chồng của người mẹ nhờ mang thai hộ đã đóng bảo hiểm xã hội từ đủ 6 tháng trở lên trong thời gian 12 tháng tính đến thời điểm nhận con được trợ cấp một lần.
Bộ Quốc phòng đang lấy ý kiến để hoàn thiện Dự thảo Thông tư Hướng dẫn thực hiện bảo hiểm xã hội bắt buộc đối với quân nhân và người làm công tác cơ yếu hưởng lương như đối với quân nhân nhằm hướng dẫn cụ thể một số quy định của Luật Bảo hiểm xã hội năm 2024, có hiệu lực từ ngày 1-7-2025. Dự kiến, Thông tư này áp dụng với người lao động tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc trong Bộ Quốc phòng, bao gồm:
a) Sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp quân đội nhân dân; người làm công tác cơ yếu hưởng lương như đối với quân nhân;
b) Hạ sĩ quan, binh sĩ quân đội nhân dân; học viên quân đội, cơ yếu đang theo học được hưởng sinh hoạt phí;
c) Người lao động quy định tại điểm a, điểm b khoản 1 Điều này trong thời gian đi học tập, thực tập, công tác, nghiên cứu, đi điều dưỡng ở nước ngoài mà vẫn hưởng tiền lương hoặc phụ cấp quân hàm hoặc sinh hoạt phí ở trong nước, thì được đóng và hưởng các chế độ bảo hiểm xã hội quy định tại Thông tư này.
2. Người sử dụng lao động tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc bao gồm: Các cơ quan, đơn vị, tổ chức, cá nhân có liên quan đến việc thực hiện chính sách bảo hiểm xã hội đối với các đối tượng quy định tại Thông tư này.
Các ý kiến tham gia đóng góp vào Dự thảo Thông tư Hướng dẫn thực hiện bảo hiểm xã hội bắt buộc đối với quân nhân và người làm công tác cơ yếu hưởng lương như đối với quân nhân xin gửi về Cổng Thông tin điện tử Ngành Chính sách Quân đội: http://chinhsachquandoi.gov.vn hoặc bằng văn bản về Cục Chính sách-Xã hội, Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam, địa chỉ: Số 34C, Trần Phú, Ba Đình, Hà Nội; hoặc về Bộ Quốc phòng qua email: info@mod.gov.vn.
Báo Quân đội nhân dân sẽ thông tin đầy đủ về Dự thảo Thông tư này.
QĐND