Đồng chí Lê Hải Hòa, Phó Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch UBND tỉnh kiểm tra tiến độ giải ngân, thi công một số tuyến giao thông huyết mạch trên địa bàn tỉnh.
Từ ngày 1/7, thực hiện ý kiến chỉ đạo của đồng chí Bí thư Tỉnh ủy và Ban Thường vụ Tỉnh ủy về việc cần có một hệ thống theo dõi giải ngân theo thời gian thực, tỉnh đã khởi động công tác xây dựng nền tảng điều hành đầu tư công. Từ ý tưởng ban đầu, lựa chọn hướng tiếp cận, tìm đơn vị có kinh nghiệm, thiết kế cấu trúc dữ liệu đến tổ chức chạy thử ở một số dự án trọng điểm - mọi việc đều đã được thực hiện theo đúng tinh thần chỉ đạo. Tuy nhiên, tiến độ chung vẫn chậm hơn nhu cầu thực tế. Dữ liệu cập nhật chưa đều, chưa đầy đủ; chạy thử còn mờ nhạt; nhiều bước theo dõi vẫn dựa vào tổng hợp thủ công; quy trình thông tin còn mang tính cơ học và phụ thuộc nhiều vào văn bản giấy, điện thoại và họp hành. Trong khi đó, tiến độ giải ngân nhiều dự án vẫn ì ạch, khó làm rõ ngay nguyên nhân từng điểm nghẽn. Nhìn sâu vào thực tế mới thấy: dù có chủ trương đúng và quyết tâm lớn, nhưng khi lãnh đạo tỉnh không có một bức tranh đầy đủ, chính xác và cập nhật theo ngày, việc điều hành vẫn chủ yếu dựa trên phản ứng tình huống. Một đoạn tuyến được báo cáo “cơ bản bàn giao” nhưng vẫn còn nhiều hộ chưa giải tỏa; hồ sơ Kho bạc bị trả lại nhiều lần nhưng lý do đến muộn; tiến độ thi công được ghi 80% nhưng ảnh hiện trường không phản ánh đúng. Những nhược điểm này cho thấy tỉnh cần một hệ thống dữ liệu thực, chảy về một cửa, để làm nền tảng cho chỉ đạo kịp thời và trúng đích.
Mục tiêu của hệ thống: nhìn một lần - hiểu ngay - xử lý đúng điểm nghẽn
Một hệ thống theo dõi đầu tư công chỉ thật sự có giá trị nếu giúp lãnh đạo nhìn thấy rõ các yếu tố cốt lõi: tiến độ, vướng mắc và trách nhiệm. Điều này đòi hỏi dữ liệu phải được chuẩn hóa và cập nhật liên tục. Mỗi dự án phải có “kế hoạch gốc” để đối chiếu; có tiến độ dự kiến theo tháng, theo tuần; có hình ảnh hiện trường và định vị chính xác; có nhật ký từng lần nộp, nhận, trả lại hồ sơ; có báo cáo khối lượng thi công theo từng hạng mục. Tình trạng giải phóng mặt bằng phải thể hiện đến từng hộ, từng thửa – không dừng ở tỷ lệ chung. Quy trình đấu thầu cần hiển thị rõ từng bước: phát hành, đóng thầu, thẩm định, phê duyệt. Hồ sơ Kho bạc phải ghi đầy đủ thời điểm gửi, thời điểm xử lý và lý do trả lại. Mọi điều chỉnh thiết kế, dự toán, phát sinh khối lượng đều phải cập nhật đầy đủ.
Để thông tin tập trung, hệ thống cần hai cách tiếp nhận dữ liệu: Một là, những đơn vị đủ điều kiện kỹ thuật gửi dữ liệu trực tiếp để hệ thống cập nhật tự động; Hai là. các đơn vị khác gửi tệp dữ liệu dạng bảng – cách làm đơn giản, dễ áp dụng.
Điều quan trọng không nằm ở phương thức của từng đơn vị, mà ở việc dữ liệu phải chính xác, đầy đủ và đến kịp thời. Khi đó, lãnh đạo tỉnh có thể trả lời ngay ba câu hỏi trọng tâm: dự án đang chậm ở đâu? Vì sao chậm? Đơn vị nào phải xử lý?
Cảnh báo sớm - giao việc - thời hạn xử lý: tạo kỷ luật cho tiến độ
Một hệ thống hiệu quả không chỉ hiển thị dữ liệu mà phải phát hiện bất thường sớm hơn báo cáo truyền thống. Các ngưỡng cảnh báo vì vậy cần rõ ràng: giải ngân tháng không đạt mức tối thiểu, thi công chậm hơn kế hoạch hai tuần, hồ sơ Kho bạc bị trả lại nhiều lần, mặt bằng còn nhiều điểm chưa bàn giao… đều phải được hệ thống tự động đánh dấu. Sau cảnh báo là hành động. Hệ thống phải tạo “phiếu việc”, giao rõ ràng cho đơn vị chịu trách nhiệm, nêu rõ việc cần làm và thời hạn hoàn thành. Thời gian thực hiện phải thống nhất: ba ngày để hoàn thiện hồ sơ, năm ngày để giải trình, bảy đến mười ngày để xử lý các điểm vướng mặt bằng. Khi quá hạn, hệ thống chuyển trạng thái sang “trễ hạn” và hiển thị trước lãnh đạo. Nhờ đó, trách nhiệm được phân định rõ. Không còn chỗ cho đùn đẩy, mơ hồ hoặc chậm trễ kéo dài. Nhà thầu cũng phải được đánh giá bằng các tiêu chí rõ ràng: mức huy động nhân lực – thiết bị, tiến độ thực tế, số dự án chậm, số lần bị cảnh báo. Khi đánh giá dựa trên dữ liệu thật, việc lựa chọn hoặc điều chỉnh nhà thầu trở nên khách quan hơn, giảm được tranh luận cảm tính. Đặc biệt, hệ thống phải hình thành một “màn hình điều hành duy nhất” cho lãnh đạo tỉnh. Tại đây, toàn bộ dữ liệu quan trọng được tập trung: tiến độ từng dự án theo ngày, bản đồ mặt bằng đến từng hộ, nhật ký xử lý hồ sơ, mức độ huy động của nhà thầu, cảnh báo đỏ – vàng, các phiếu việc đang quá hạn. Nhờ vậy, lãnh đạo nắm được toàn tuyến chỉ trong vài phút, không cần chờ báo cáo từ nhiều sở, ngành.
Rào cản lớn nhất: nỗi e ngại bị “phơi thông tin” và tinh thần thật sự của chuyển đổi số
Kết quả chạy thử thời gian qua cho thấy: rào cản lớn nhất không phải ở công nghệ hay phần mềm, mà ở tâm lý của các đơn vị tham gia. Nhiều nơi chưa sẵn sàng cập nhật tiến độ thật vì lo bị so sánh; một số e ngại khi số lần hồ sơ bị trả lại được hiển thị rõ; có đơn vị không muốn thể hiện công khai tình trạng huy động của nhà thầu; có cán bộ lo rằng dữ liệu chi tiết sẽ làm lộ chậm trễ trước công chúng và cấp trên. Nỗi lo “phơi thông tin” vô hình chung trở thành lực cản khiến hệ thống không thể vận hành trơn tru như yêu cầu. Nhưng nếu dữ liệu không trung thực, không đầy đủ và không đến đúng thời điểm, mọi giải pháp đều chỉ dừng lại ở hình thức. Chuyển đổi số trong đầu tư công không phải chuyển báo cáo giấy lên máy tính, cũng không phải thay đổi hình thức trình bày. Đây là quá trình đổi mới tư duy và cách làm việc, yêu cầu minh bạch hơn, chủ động hơn, có trách nhiệm hơn và dựa trên số liệu thực, không dựa trên cảm tính. Nó đòi hỏi vượt qua sức ỳ lâu năm, vượt qua thói quen làm việc theo quý, vượt qua tâm lý e ngại khi bị đánh giá dựa trên kết quả thật. Khi mỗi đơn vị dám cập nhật dữ liệu đúng, dám đối diện với tiến độ thực, dám nhận trách nhiệm rõ ràng và dám đổi mới, hệ thống sẽ phát huy sức mạnh của nó. Khi cảnh báo được xử lý đúng lúc và phiếu việc được hoàn thành đúng hạn, dòng vốn đầu tư công sẽ thông suốt hơn, đúng thời điểm hơn và phục vụ tốt hơn đời sống người dân. Đây chính là tinh thần cốt lõi mà chuyển đổi số hướng tới: quản trị dựa trên dữ liệu thật, quyết định nhanh hơn và hiệu quả cao hơn.
Lê Hải Hòa, Phó Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch UBND tỉnh