Làm rõ quy định về thu nhập chịu thuế và giảm trừ gia cảnh
Góp ý về dự thảo Luật, đại biểu Thái Thị An Chung (Nghệ An) cho rằng, việc mở rộng diện thu nhập chịu thuế từ tiền lương, tiền công theo dự thảo luật còn nhiều điểm chưa rõ ràng, dễ gây lúng túng trong thực thi. Theo quy định hiện hành, thu nhập chịu thuế bao gồm tiền lương, tiền công, các khoản có tính chất tiền lương, tiền công và các khoản phụ cấp, trợ cấp (trừ các khoản được liệt kê miễn thuế). Tuy nhiên, dự thảo lần này bổ sung thêm “tiền thù lao và các khoản lợi ích bằng tiền hoặc không bằng tiền dưới mọi hình thức”, khiến phạm vi điều chỉnh trở nên quá rộng.
ĐBQH Thái Thị An Chung (Nghệ An) phát biểu. Ảnh: Phạm Thắng
Đại biểu nêu rõ, nếu quy định này được áp dụng, cần xác định cụ thể liệu các khoản hỗ trợ ăn trưa, quà Tết, tiền thưởng cho con em người lao động nhân dịp 1/6, chi phí tổ chức du lịch cho người lao động… có bị tính vào thu nhập chịu thuế hay không. “Đây là các khoản phúc lợi mang tính động viên, góp phần tạo sự gắn bó giữa người lao động và người sử dụng lao động, không phải thu nhập mang tính thường xuyên hay sinh lợi. Nếu không làm rõ, việc áp dụng sẽ gặp nhiều khó khăn và tạo gánh nặng cho các bên liên quan”, đại biểu nhấn mạnh.
Theo đại biểu Thái Thị An Chung, quy định bổ sung này sẽ gây hệ lụy cho cả ba đối tượng chính: doanh nghiệp, cơ quan thuế và người lao động. Doanh nghiệp phải mất thêm chi phí và thời gian bóc tách, hạch toán chi tiết từng khoản phúc lợi; cơ quan thuế gặp khó khăn trong xây dựng phương pháp tính thuế đảm bảo công bằng; còn người lao động dễ cảm thấy không thỏa đáng khi hầu hết các khoản hỗ trợ đều bị coi là thu nhập chịu thuế. Vì vậy, cần nghiên cứu loại bỏ cụm từ “dưới mọi hình thức” và quy định rõ ràng trong Luật hoặc văn bản dưới luật về những khoản lợi ích được miễn trừ.
Đoàn ĐBQH tỉnh Nghệ An tham dự phiên thảo luận tổ. Ảnh: HP
Đại biểu cũng đề nghị, nếu vẫn xác định đánh thuế với các khoản lợi ích này thì phải quy định một ngưỡng thu nhập tối thiểu mới thuộc diện chịu thuế, nhằm bảo đảm tính hợp lý và phù hợp với thực tiễn… Trên cơ sở phân tích, đại biểu nhận định: tính khả thi của quy định mở rộng này không cao và không nên đưa vào luật ở thời điểm hiện nay.
Đề cập đến vấn đề giảm trừ gia cảnh, đại biểu Thái Thị An Chung cho biết cử tri nhiều lần phản ánh việc áp dụng mức giảm trừ chung cho toàn quốc là chưa công bằng, vì chi phí sinh hoạt, nhà ở, giáo dục, y tế… giữa các vùng có sự chênh lệch rất lớn. Bộ luật Lao động hiện nay đã quy định chia thành 4 vùng lương tối thiểu, do đó mức giảm trừ gia cảnh cũng nên áp dụng tương tự.
Toàn cảnh phiên thảo luận tổ. Ảnh: HP
Đại biểu kiến nghị bổ sung quy định về hệ số điều chỉnh vùng để mức giảm trừ gia cảnh phản ánh sát thực tế hơn. Cụ thể, Vùng 1 có thể cao hơn Vùng 2, Vùng 2 cao hơn Vùng 3 và Vùng 4… Đồng thời, đề nghị sửa đổi khoản 1 Điều 10 theo hướng: “Giảm trừ gia cảnh là số tiền được trừ vào thu nhập chịu thuế căn cứ vào biến động giá cả, thu nhập. Chính phủ quy định mức giảm trừ gia cảnh cơ sở và hệ số điều chỉnh theo vùng phù hợp với tình hình kinh tế – xã hội, chi phí sinh hoạt thực tế và đồng bộ với chính sách tiền lương tối thiểu vùng trong từng thời kỳ”.
Hoàn thiện chính sách thuế phù hợp thực tiễn
Đại biểu Phạm Thị Kiều (Lâm Đồng) nhận định: Điều 3 của dự thảo đã quy định khá cụ thể các loại thu nhập chịu thuế, nhưng việc tiếp tục giao Chính phủ quy định “thu nhập khác chịu thuế” là chưa hợp lý. Đây là nội dung liên quan trực tiếp đến quyền và nghĩa vụ của người nộp thuế, cần được quy định cụ thể ngay trong Luật để bảo đảm tính rõ ràng, minh bạch, ổn định và tạo sự đồng thuận trong xã hội. Đại biểu đề nghị bỏ quy định tại điểm đ khoản 10 Điều 3 về “thu nhập khác do Chính phủ quy định”.
ĐBQH Phạm Thị Kiều (Lâm Đồng) phát biểu. Ảnh: HP
Liên quan đến quy định thu nhập từ chuyển nhượng vàng miếng là thu nhập chịu thuế, đại biểu cho rằng: điều này có thể gây bất cập trong thực tiễn vì nhiều người mua vàng không nhằm đầu cơ mà chỉ tích trữ, tiết kiệm phòng thân. Việc đánh thuế trong trường hợp này sẽ không mang ý nghĩa nhân văn, xã hội và không đạt mục tiêu quản lý kinh tế. Cơ quan soạn thảo cần nghiên cứu phân biệt rõ giữa hoạt động đầu tư lướt sóng ngắn hạn và tích trữ lâu dài, quy định mức thuế, phương thức áp dụng phù hợp để bảo đảm công bằng và hiệu quả quản lý.
Đại biểu Phạm Thị Kiều cũng bày tỏ quan điểm không đồng tình với quy định thu nhập từ chuyển nhượng tín chỉ các-bon thuộc diện chịu thuế, vì thị trường này mang lại lợi ích lớn cho phát triển kinh tế xanh, tạo nguồn tài chính xanh cho các dự án năng lượng tái tạo, nông nghiệp bền vững, trồng rừng, quản lý chất thải và bảo tồn hệ sinh thái. Việc đánh thuế sẽ kìm hãm sự phát triển của thị trường và đi ngược mục tiêu phát thải ròng bằng “0” mà Việt Nam cam kết. Đại biểu kiến nghị bỏ quy định này để khuyến khích phát triển thị trường tín chỉ các-bon.
ĐBQH Võ Thị Minh Sinh (Nghệ An) điều hành phiên thảo luận tổ. Ảnh: Phạm Thắng
Về biểu thuế lũy tiến từng phần, đại biểu đề nghị tăng phần thu nhập tính thuế ở bậc 1 để phù hợp với tốc độ tăng trưởng kinh tế, chi phí sinh hoạt thực tế, đặc biệt ở các đô thị lớn, đồng thời giữ khoảng cách 5% giữa các bậc như quy định hiện hành để đảm bảo công bằng
Đối với thu nhập từ chuyển nhượng chứng khoán, vốn và bất động sản, dự thảo hiện giữ nguyên phương pháp tính thuế (0,1% đối với chứng khoán và 2% với bất động sản). Đại biểu đề xuất bổ sung phương án cho phép người nộp thuế được lựa chọn nộp thuế trên phần chênh lệch nếu có đủ hóa đơn, chứng từ chứng minh giá mua và chi phí hợp lý. Cách tính này phản ánh đúng bản chất thu nhập và khuyến khích kê khai trung thực.
Về phạm vi ủy quyền cho Chính phủ, đại biểu cho rằng: Dự thảo đang giao Chính phủ quy định nhiều nội dung cốt lõi như tiêu chí cư trú, ngưỡng chịu thuế, giảm trừ gia cảnh, thuế vàng miếng, mức chi y tế, giáo dục được khấu trừ… Đây là các yếu tố trực tiếp ảnh hưởng đến nghĩa vụ thuế của người dân, cần được quy định cụ thể trong Luật để bảo đảm quyền lập pháp của Quốc hội và sự ổn định của chính sách. Đại biểu đề nghị chỉ ủy quyền cho Chính phủ đối với các nội dung kỹ thuật, đồng thời quy định thẩm quyền trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội điều chỉnh mức giảm trừ gia cảnh trong các trường hợp cần thiết.
ĐBQH Đặng Hồng Sỹ (Lâm Đồng) phát biểu. Ảnh: Phạm Thắng
Ở góc nhìn khác, đại biểu Đặng Hồng Sỹ (Lâm Đồng) thì cho rằng, cơ quan soạn thảo cần nghiên cứu bổ sung chính sách miễn, giảm thuế cho cá nhân làm việc trong lĩnh vực công nghệ cao, đổi mới sáng tạo, nghiên cứu – phát triển, đồng thời xem xét chi phí giáo dục, đào tạo, y tế để phù hợp với chủ trương của Đảng về phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao. Đại biểu cũng lưu ý cần thống nhất khái niệm “nhân lực công nghệ cao”, “thu nhập ưu đãi” và “thời gian miễn giảm thuế” giữa Luật Thuế thu nhập cá nhân và Luật Công nghệ cao để đảm bảo tính đồng bộ.
Các ĐBQH tỉnh Lâm Đồng tham dự phiên thảo luận tổ. Ảnh: HP
Về chính sách thuế đối với cá nhân kinh doanh, một số đại biểu đồng tình với việc nâng ngưỡng doanh thu chịu thuế từ 100 triệu lên 200 triệu đồng/năm, song đề nghị chỉ tính thuế trên phần vượt ngưỡng để bảo đảm công bằng và tránh tạo tâm lý né khai. Cùng với đó, đại biểu cũng góp ý nên xem xét duy trì 7 bậc thuế thay vì giảm xuống 5 bậc như dự thảo, hoặc nếu giữ 5 bậc thì cần điều chỉnh lại khoảng cách hợp lý giữa các bậc, tránh chênh lệch lớn gây bất hợp lý.
Đối với thuế kinh doanh vàng miếng, có ý kiến thống nhất với hướng đánh thuế nhẹ (0,1%) nhằm hạn chế đầu cơ, song cần phân biệt giữa hoạt động kinh doanh và tích trữ của người dân… Đồng thời, đại biểu cũng đồng ý với thời điểm có hiệu lực của Luật từ ngày 1/7/2026, riêng các nội dung liên quan đến thu nhập tính theo năm (như tiền lương, tiền công) áp dụng từ 1/1/2026 để bảo đảm sự chuẩn bị đầy đủ và tránh phát sinh thủ tục phức tạp cho người nộp thuế.
Diệp Anh