Thứ trưởng Thường trực Bộ GD&ĐT Phạm Ngọc Thưởng
Đó là nhận định của Thứ trưởng Thường trực Bộ GD&ĐT Phạm Ngọc Thưởng tại phiên họp Xin ý kiến góp ý dự thảo Đề án “Đưa tiếng Anh thành ngôn ngữ thứ hai trong trường học giai đoạn 2025-2035, tầm nhìn đến năm 2045” (gọi tắt là Đề án).
Theo Bộ GD&ĐT, việc xây dựng Đề án nhằm cụ thể hóa các chủ trương, nghị quyết của Đảng, Chính phủ về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế.
Đề án đặt mục tiêu đến năm 2045, tiếng Anh trở thành ngôn ngữ thứ hai trong hệ thống giáo dục, được sử dụng rộng rãi trong dạy học, quản lí và các hoạt động giáo dục. Lộ trình triển khai chia thành ba giai đoạn (2025-2030, 2030-2040, 2040-2045) với bộ tiêu chí đánh giá gồm 7 tiêu chuẩn cho từng cấp học.
Các nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm gồm: nâng cao nhận thức xã hội; hoàn thiện cơ chế, chính sách; phát triển đội ngũ giáo viên; xây dựng chương trình, học liệu; đổi mới thi, kiểm tra, đánh giá; ứng dụng công nghệ và trí tuệ nhân tạo; tăng cường hợp tác quốc tế và xã hội hóa; đẩy mạnh thi đua, khen thưởng.
Liệu có khả thi?
Theo Thứ trưởng Thường trực Bộ GD&ĐT Phạm Ngọc Thưởng Đề án được dự kiến triển khai trong toàn hệ thống giáo dục với gần 50.000 cơ sở, khoảng 30 triệu học sinh, sinh viên và 1 triệu cán bộ, giáo viên. Trong đó, cần bổ sung khoảng 12.000 giáo viên tiếng Anh mầm non, gần 10.000 giáo viên tiểu học, đồng thời bồi dưỡng ít nhất 200.000 giáo viên có khả năng giảng dạy bằng tiếng Anh đến năm 2030.
Nguồn lực thực hiện gồm ngân sách nhà nước và sự tham gia, đóng góp của doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân. Bộ GDĐT khẳng định thành công của Đề án đòi hỏi sự đồng thuận xã hội, kiên trì thực hiện trong suốt 20 năm, nhằm góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia và hội nhập quốc tế sâu rộng.
Một giáo viên ở tổ tiếng Anh ở một trường Liên cấp có tiếng ở Hà Nội cho biết, trường hiện có 45 giáo viên môn tiếng Anh trong đó có 5 giáo viên dạy môn Khoa học bằng tiếng Anh, 2 giáo viên môn Toán bằng tiếng Anh. Môn Tin học mới năm nay nhưng nhà trường chưa tuyển giáo viên dạy tiếng Anh chuyên cho môn học này.
Là người quản lý và giúp ban giám hiệu tuyển giáo viên tiếng Anh trong nhiều năm cho nhà trường, giáo viên này cũng cho biết, để tuyển giáo viên dạy tiếng Anh chất lượng, đáp ứng được yêu cầu của nhà trường không phải dễ. Việc giáo viên nước ngoài trong trường cũng luôn bị thay đổi chính ở chính sách tiền lương. Và khi giáo viên nghỉ thì tổ bộ môn rất khó xoay sở trong việc tìm giáo viên khác thay thế.
Vị giáo viên này cũng nhấn mạnh, môn Toán Tiếng Anh, Khoa học tiếng Anh nhà trường có đội ngũ cố vấn chuyên môn nên có khoa đào tạo riêng vì mỗi môn này tổ tiếng Anh chỉ có 2-5 người mỗi môn và có bằng chuyên ngành nên được đào tạo lại một cách bài bản.
GS Nguyễn Quý Thanh, Hiệu trưởng Trường Đại học Giáo dục (Đại học Quốc gia Hà Nội)
Từ góc độ đơn vị đào tạo giáo viên, GS Nguyễn Quý Thanh, Hiệu trưởng Trường Đại học Giáo dục (Đại học Quốc gia Hà Nội) cho rằng: việc đào tạo tiếng Anh trở thành ngôn ngữ thứ hai phải gắn với rèn luyện tư duy, khả năng tiếp nhận và phản ánh văn hóa, đồng thời kết hợp với tư duy duy lí để tạo chuyển biến thực chất. Bên cạnh đó, giai đoạn 4-7 tuổi là “thời kỳ vàng” để học ngôn ngữ, nhưng nếu cho trẻ học tiếng Anh quá sớm có thể ảnh hưởng đến khả năng thành thạo tiếng mẹ đẻ và việc tiếp nhận văn hóa Việt.
Bà Trần Thị Huyền, Quyền Giám đốc Sở GDĐT Cần Thơ, cho biết các trường rất phấn khởi khi Kết luận số 91-KL/TW và Nghị quyết số 71-NQ/TW của Bộ Chính trị đều xác định đưa tiếng Anh thành ngôn ngữ thứ hai. Tuy nhiên, việc triển khai còn nhiều băn khoăn về năng lực giáo viên và điều kiện hạ tầng. Với thực tế số lượng lớn học sinh là con em đồng bào dân tộc, nhiều em chưa thành thạo tiếng Việt, cần có lộ trình phù hợp cho từng địa phương để bảo đảm thực hiện đồng bộ, hiệu quả.
Thầy Nguyễn Trần Bình An, ứng viên thạc sĩ ngành Ngôn ngữ học Ứng dụng tương lai tại University of York (Anh) chỉ ra, hiện nay, hệ thống giáo dục Việt Nam có khoảng 30 trường đại học đào tạo ngành sư phạm tiếng Anh. Đặc biệt, một số cơ sở đã và đang triển khai các chương trình đào tạo giáo viên dạy các môn học khác bằng tiếng Anh (như Trường Đại học Sư phạm Hà Nội), kèm theo chỉ tiêu riêng cho bậc mầm non và tiểu học.
Ngoài ra, nhiều trường còn mở rộng cơ hội thông qua các chương trình văn bằng 2 hoặc thạc sĩ, tạo điều kiện cho những người có nền tảng ngoại ngữ hoặc có nhu cầu chuyển ngành gia nhập đội ngũ giáo viên. Bên cạnh hệ thống đào tạo công, các tổ chức quốc tế như Apollo hay British Council cũng đóng góp vào việc bồi dưỡng và cấp các chứng chỉ nghiệp vụ quốc tế như CELTA hoặc TESOL.
Mặc dù mục tiêu phát triển đội ngũ giáo viên tiếng Anh là khả thi về mặt lý thuyết, quá trình thực hiện vẫn gặp nhiều thách thức.
Cũng theo Thầy Bình, một trong những vấn đề cốt lõi là cần đảm bảo nguồn tuyển sinh có đủ năng lực tiếng Anh và động lực theo học chuyên ngành sư phạm. Nếu chỉ tiêu đào tạo được đặt ra nhưng số lượng và chất lượng đầu vào không đáp ứng, mục tiêu sẽ khó đạt được.
Thầy Nguyễn Trần Bình An, ứng viên thạc sĩ ngành Ngôn ngữ học Ứng dụng tương lai tại University of York (Anh). Ảnh: NVCC
Giải pháp là gì?
Thầy Nguyễn Trần Bình An, ứng viên thạc sĩ ngành Ngôn ngữ học Ứng dụng tương lai tại University of York (Anh), cho rằng, trong những năm gần đây, Nhà nước đã có những bước tiến quan trọng trong việc đầu tư, nâng cao đãi ngộ nhằm thu hút sinh viên sư phạm, đồng thời ban hành Nghị quyết số 71/NQ-TW về đột phá phát triển giáo dục và đào tạo.
Tuy nhiên, theo thầy Bình, để phát huy tối đa hiệu quả, cần có nguồn ngân sách nhất quán từ Nhà nước cũng như các chính sách cụ thể đảm bảo chuẩn đầu ra của sinh viên sư phạm, cũng như phát huy giáo dục tiếng Anh ngay từ khi các em ngồi trên ghế nhà trường từ đó duy trì và nâng cao trình độ chuyên môn của đội ngũ giáo viên tương lai.
Có thể thấy, việc phát triển đội ngũ giáo viên là một vòng tròn hệ thống và có mối quan hệ nhân quả chặt chẽ. Các chương trình đào tạo tốt, với đầu vào và chuẩn đầu ra nghiêm ngặt (đặc biệt về năng lực ngoại ngữ), sẽ tạo ra lứa giáo viên chất lượng cao.
Những giáo viên chất lượng này sẽ truyền đạt kiến thức và phương pháp sư phạm tiên tiến, giúp thế hệ học sinh sau trở nên giỏi Tiếng Anh hơn và có năng lực toàn diện hơn. Đó sẽ là nguồn lực tiềm năng, chất lượng để trở thành những giáo viên tương lai xuất sắc, duy trì và nâng cao trình độ chuyên môn của ngành.
Xét về mặt chuyên môn, mục tiêu đặt ra là 200.000 giáo viên có khả năng dạy các môn học khác bằng tiếng Anh đến năm 2030 (tương đương khoảng 50.000 giáo viên mỗi năm) đang cho thấy sự chưa đáp ứng đủ của các chương trình đào tạo hiện hành.
Hiện chỉ có rất ít trường triển khai ngành đào tạo này với chỉ tiêu còn hạn chế. Ví dụ ngành sư phạm Toán học (dạy bằng tiếng Anh) năm vừa rồi chỉ có chỉ tiêu là 60 sinh viên, ngành sư phạm Vật lí bằng tiếng Anh là 20 và Hóa học là 20.
Để khắc phục khoảng cách này, thầy Bình cho rằng, bên cạnh việc tăng cường chỉ tiêu ở các ngành đào tạo các môn bằng tiếng Anh, việc tích cực phát huy đào tạo hình thức dạy học CLIL (Giảng dạy tích hợp nội dung-ngôn ngữ) là rất cần thiết.
Hình thức này nên được tích hợp mạnh mẽ ngay cả trong chuyên ngành sư phạm tiếng Anh để sinh viên sau khi tốt nghiệp có thể trở thành giáo viên không chỉ của riêng bộ môn tiếng Anh mà còn có khả năng giảng dạy các bộ môn khác bằng tiếng Anh.
Hiện tại, đường hướng dạy học CLIL vẫn chưa được tập trung ưu tiên tại một số trường đào tạo sư phạm tiếng Anh ở Việt Nam, nhường chỗ cho các đường hướng khác. Việc điều chỉnh trọng tâm này sẽ giúp chương trình đào tạo đồng bộ hơn với mục tiêu chiến lược của Nhà nước.
Ngoài ra, các trường đại học có thể gia tăng chỉ tiêu đào tạo, kèm theo việc tích hợp công nghệ và các nền tảng trực tuyến để đảm bảo sự đáp ứng về cơ sở vật chất.
Có lẽ, thách thức lớn nhất đối với Đề án là sự chênh lệch về trình độ và điều kiện giáo dục giữa các vùng miền. Việc đạt được số lượng giáo viên là một chuyện, nhưng để phổ cập việc sử dụng tiếng Anh trong giáo dục đòi hỏi một chính sách nhất quán và linh hoạt từ cấp quản lý. Ở nhiều vùng sâu, vùng xa, điều kiện còn hạn chế đến mức việc tiếp cận tiếng Anh, thậm chí là tiếng mẹ đẻ, vẫn còn gặp khó khăn. Do đó, việc phổ cập tiếng Anh như ngôn ngữ thứ hai sẽ cần một thời gian dài để thu hẹp khoảng cách này.
Khi chương trình giảng dạy (bao gồm cả việc dạy bằng tiếng Anh) không thể triển khai đồng đều, Bộ GD&ĐT sẽ đối mặt với thách thức lớn về việc chuẩn hóa nội dung học tập và đặc biệt là các kỳ thi quốc gia. Áp dụng một bộ tiêu chí chung cho cả nước sẽ trở nên không công bằng và không phản ánh đúng thực tế năng lực của học sinh, gây khó khăn rất lớn cho quá trình xét tuyển đại học sau này.
Một giải pháp hỗ trợ là một lộ trình triển khai phân tầng phù hợp với nhu cầu và thực tế phát triển của từng vùng miền. Ngoài ra, Nhà nước có thể tận dụng hình thức tập huấn, bồi dưỡng CLIL từ xa để đảm bảo giáo viên ở mọi khu vực đều được tiếp cận với các phương pháp giảng dạy hiện đại. Tuy nhiên, đây chỉ là giải pháp tạm thời và hỗ trợ trong khi chờ đợi chính sách đãi ngộ phát huy tác dụng.
Ngoài ra, hệ thống kiểm tra, đánh giá chất lượng và xét tuyển đại học cần được thiết kế linh hoạt, có thể chia thành các nhóm đối tượng để đáp ứng cho cả học sinh học chương trình tăng cường/tích hợp tiếng Anh và học sinh theo chương trình hiện hành ở các vùng có điều kiện hạn chế. Điều này sẽ đảm bảo tính công bằng và nhất quán trong việc đánh giá năng lực học tập và xét tuyển.
Đỗ Hợp