Theo ông Cao Bá Đăng Khoa - Tổng thư ký Hiệp hội Dừa Việt Nam, chỉ trong nửa đầu năm 2025, xuất khẩu 4 nhóm sản phẩm chủ lực của ngành dừa đã đạt hơn 520 triệu USD, tăng trên 20% so với cùng kỳ năm trước. Các sản phẩm chủ lực bao gồm dừa tươi, nước cốt dừa cấp đông, dầu dừa thô, thực phẩm - mỹ phẩm từ dừa và thủ công mỹ nghệ.
Đáng chú ý, xuất khẩu dừa tươi có thể vượt xa mốc 390 triệu USD của năm 2024. Những kết quả này không chỉ củng cố vị trí thứ 4 của Việt Nam trong khu vực châu Á - Thái Bình Dương, mà còn duy trì vị trí thứ 5 trên bản đồ xuất khẩu dừa toàn cầu.
Song hành với tăng trưởng kim ngạch, giá trị dừa tại Việt Nam cũng tăng mạnh. Năm 2023, giá dừa tại vườn chỉ khoảng 5.000 đồng/quả, đến quý III/2025 đã lên 15.000 đồng/quả. Tuy nhiên, mức này vẫn còn thấp hơn nhiều so với giá quốc tế.
Khoảng cách này tạo động lực để doanh nghiệp đầu tư vào công nghệ trồng, bảo quản, chế biến và nâng cấp mẫu mã, nhằm tăng sức cạnh tranh và củng cố niềm tin cho người nông dân gắn bó lâu dài với cây dừa.
Theo ông Khoa, để tận dụng dư địa lớn của thị trường, ngành dừa cần phát triển bền vững với các giải pháp đổi mới phương pháp canh tác, chế biến và quản lý chuỗi giá trị. Cụ thể, cần áp dụng mô hình trồng dừa thân thiện môi trường, thích ứng biến đổi khí hậu và giảm phát thải.
Ngoài ra, việc xây dựng hành lang pháp lý rõ ràng, cấm thuốc bảo vệ thực vật độc hại, đào tạo nông dân và công nhân cũng là yếu tố then chốt. Doanh nghiệp phải đẩy mạnh tự động hóa chế biến, ứng dụng trí tuệ nhân tạo trong quản lý sản xuất để tăng tính minh bạch và đảm bảo an toàn thực phẩm.
Một vấn đề trọng yếu khác là truy xuất nguồn gốc và xây dựng bản đồ số vùng trồng dừa, không chỉ để đáp ứng yêu cầu thương mại quốc tế mà còn để kiểm soát chất lượng đầu vào.
Hiện nay, vùng Đồng bằng sông Cửu Long vẫn là “thủ phủ” dừa cả nước nhờ khí hậu, thổ nhưỡng thuận lợi. Tuy nhiên, sản lượng và chất lượng nguyên liệu vẫn thiếu ổn định. Bà Nguyễn Thị Kim Thanh - Chủ tịch Hiệp hội Dừa Việt Nam cho rằng, cần đa dạng hóa giống, thúc đẩy canh tác hữu cơ để bảo đảm năng suất bền vững.
Trong khi đó, Tiến sĩ Trần Minh Hải - Phó hiệu trưởng Trường Chính sách công và Phát triển nông thôn nhấn mạnh mô hình hợp tác xã là chìa khóa nâng cao năng lực xuất khẩu. Các vùng trồng lớn đang dịch chuyển lên Đông Nam Bộ và Tây Nguyên với diện tích 30-50ha, được cấp mã số vùng trồng, tạo nguồn cung ổn định hơn.
Một bước tiến quan trọng là việc Tổng cục Hải quan Trung Quốc (GACC) phê duyệt thêm 6 mã số vùng trồng và cơ sở đóng gói dừa tại An Giang. Đây là điều kiện để dừa tươi Việt Nam tiếp cận sâu hơn với thị trường tỷ dân hiện chiếm 30-35% kim ngạch xuất khẩu dừa.
Tuy nhiên, ông Khoa lưu ý, Trung Quốc tiêu thụ hơn 6 tỷ trái dừa mỗi năm, nhưng dừa tươi Việt Nam mới chiếm thị phần nhỏ, đứng thứ 7-8 về nhập khẩu. Ngược lại, ở mảng chế biến sâu, Việt Nam có lợi thế nhờ công nghệ và chất lượng. Các sản phẩm dừa Việt giữ được hương thơm, vị ngọt đặc trưng, được thị trường Mỹ và Trung Quốc ưa chuộng.
Ngoài dừa tươi, Việt Nam cũng phát triển các sản phẩm giá trị gia tăng như sữa dừa, nước dừa đóng hộp, dừa khô, nguyên liệu mỹ phẩm, đáp ứng xu hướng tiêu dùng xanh và thân thiện môi trường.
Dù tiềm năng lớn, ngành dừa Việt vẫn đối mặt nhiều thách thức: vùng trồng phân tán, thiếu quy hoạch đồng bộ, khó khăn trong quản lý chất lượng, cạnh tranh gay gắt từ Thái Lan, Indonesia, Malaysia.
Để vượt qua, doanh nghiệp cần liên kết chặt chẽ, xây dựng chuỗi giá trị cộng đồng và cạnh tranh lành mạnh. Đồng thời, việc kết hợp giữa cải tiến công nghệ, truy xuất nguồn gốc và canh tác hữu cơ sẽ giúp dừa Việt nâng cao uy tín, tạo lợi thế cạnh tranh trên thị trường toàn cầu.
Kim Ngân