Đóng gói dừa tươi xuất khẩu tại Hợp tác xã Hưng Thịnh Phát, Tiền Giang. (Ảnh: Minh Trí/TTXVN)
Kim ngạch xuất khẩu dừa năm 2025 được dự báo có thể đạt tới 1,15 tỷ USD, đưa Việt Nam giữ vững vị thế trong Top 5 quốc gia xuất khẩu dừa hàng đầu thế giới.
Với dư địa thị trường còn rất lớn, ngành hàng dừa đang đứng trước cơ hội bứt phá mạnh mẽ nếu tập trung vào xây dựng chuỗi giá trị bền vững, hiện đại hóa sản xuất và chuẩn hóa vùng nguyên liệu.
Ngành hàng dừa Việt Nam đang chứng kiến sự tăng trưởng ấn tượng cả về sản lượng, kim ngạch và giá trị thương phẩm.
Theo ông Cao Bá Đăng Khoa, Tổng thư ký Hiệp hội Dừa Việt Nam, chỉ trong nửa đầu năm 2025, xuất khẩu 4 nhóm sản phẩm chủ lực của ngành dừa đã đạt hơn 520 triệu USD, tăng trên 20% so với cùng kỳ năm 2024.
Những nhóm sản phẩm chủ lực bao gồm dừa tươi, nước cốt dừa cấp đông, dầu dừa thô, thực phẩm và mỹ phẩm từ dừa, thủ công mỹ nghệ, cũng như các sản phẩm phụ trợ trong nông nghiệp.
Đây là con số tích cực, trong bối cảnh xuất khẩu dừa thường chỉ tăng mạnh trong nửa cuối năm. Việc có được đà tăng trưởng ngay từ hai quý đầu cho thấy tín hiệu thuận lợi cho toàn ngành trong năm nay.
Ông Khoa dự báo kim ngạch xuất khẩu các sản phẩm dừa trong cả năm 2025 có thể đạt 1,1-1,15 tỷ USD, tăng khoảng 20-25% so với năm 2024.
Đặc biệt, riêng xuất khẩu dừa nguyên trái hoàn toàn có thể vượt xa mốc 390 triệu USD đạt được năm ngoái.
Những con số này không chỉ củng cố vị thế thứ 4 của Việt Nam trong số các nước xuất khẩu dừa tại châu Á- Thái Bình Dương, mà còn giúp duy trì vị trí thứ 5 trên bản đồ xuất khẩu dừa toàn cầu.
Đóng gói dừa tươi xuất khẩu tại Công ty TNHH Trái cây Mekong, xã Hữu Định, huyện Châu Thành, tỉnh Bến Tre. (Ảnh: Công Trí/TTXVN)
Song song với sự tăng trưởng về kim ngạch, giá trị dừa tại Việt Nam cũng có bước tăng đột phá. Năm 2023, giá dừa tại vườn chỉ khoảng 5.000 đồng/quả, thì đến quý 3/2025 đã tăng lên 15.000 đồng/quả. Tuy vậy, mức giá này vẫn còn cách xa thị trường quốc tế.
Khoảng cách giá này chính là động lực để doanh nghiệp đẩy mạnh đầu tư vào công nghệ trồng, bảo quản, chế biến và mẫu mã sản phẩm, nhằm nâng cao sức cạnh tranh, đồng thời tạo niềm tin để người nông dân tiếp tục gắn bó lâu dài với cây dừa.
Tuy nhiên, để tận dụng dư địa lớn trên thị trường, ngành hàng dừa Việt Nam cần hướng đến phát triển bền vững, thay đổi phương pháp canh tác, chế biến và quản lý chuỗi giá trị.
Việc áp dụng phương pháp trồng dừa thân thiện với môi trường, thích ứng với biến đổi khí hậu và giảm phát thải là yếu tố sống còn trong giai đoạn tới.
Ông Khoa cho rằng ngành hàng cần gấp rút xây dựng hành lang pháp lý, cấm sử dụng thuốc bảo vệ thực vật chứa chất độc hại, đào tạo kiến thức chuyên môn cho nông dân và công nhân.
Ngoài ra, doanh nghiệp cần tự động hóa các công đoạn chế biến và ứng dụng trí tuệ nhân tạo trong quản lý sản xuất để tăng tính minh bạch, đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm.
Bên cạnh đó, doanh nghiệp cũng cần xây dựng văn hóa cạnh tranh lành mạnh, liên kết tạo chuỗi giá trị cộng đồng để nâng cao sức cạnh tranh so với các đối thủ mạnh như Thái Lan, Indonesia, Malaysia.
Một trong những vấn đề then chốt là việc truy xuất nguồn gốc sản phẩm và xây dựng bản đồ số vùng trồng dừa. Đây không chỉ là yêu cầu bắt buộc trong thương mại quốc tế, mà còn giúp doanh nghiệp quản lý chất lượng đầu vào hiệu quả hơn.
Thực tế hiện nay, ngành dừa vẫn gặp khó khăn khi vùng trồng không đồng đều, chưa theo quy hoạch, khiến doanh nghiệp khó thu mua đồng đều về giống và kích cỡ.
Theo bà Nguyễn Thị Kim Thanh, Chủ tịch Hiệp hội Dừa Việt Nam, vùng Đồng bằng sông Cửu Long hiện là nơi trồng dừa lớn nhất cả nước nhờ khí hậu và thổ nhưỡng thuận lợi.
Tuy nhiên, để phát triển bền vững, ngành hàng cần nguồn nguyên liệu ổn định về sản lượng lẫn chất lượng. Điều này đòi hỏi phải có giải pháp cải thiện năng suất, đa dạng giống phù hợp và thúc đẩy canh tác hữu cơ.
Theo Tiến sỹ Trần Minh Hải, Phó Hiệu trưởng Trường Chính sách công và Phát triển nông thôn, chìa khóa nâng cao năng lực xuất khẩu chính là mô hình hợp tác xã. Các vùng trồng dừa quy mô lớn đang dịch chuyển dần lên Đông Nam Bộ và Tây Nguyên, với diện tích từ 30-50ha.
Các vùng này đã bắt đầu được cấp mã số vùng trồng, có thể cung ứng ổn định cho xuất khẩu. Tuy nhiên, nông dân cần phân biệt rõ giữa dừa uống nước và dừa lấy dầu để tránh thiệt hại trong quá trình thu hoạch và vận chuyển.
Một bước tiến quan trọng gần đây là Tổng cục Hải quan Trung Quốc (GACC) phê duyệt cấp thêm 6 mã số vùng trồng và cơ sở đóng gói dừa của tỉnh An Giang.
Đây là cánh cửa mở rộng thêm cho dừa tươi Việt Nam tiếp cận sâu hơn với thị trường tỷ dân - nơi hiện chiếm tới 30-35% kim ngạch xuất khẩu dừa của Việt Nam. Tuy nhiên, ông Khoa lưu ý, mặc dù Trung Quốc tiêu thụ hơn 6 tỷ trái dừa mỗi năm, nhưng dừa tươi Việt Nam mới chiếm thị phần rất nhỏ, đứng thứ 7-8 về lượng nhập khẩu.
Ngược lại, ở phân khúc sản phẩm chế biến sâu, Việt Nam lại có lợi thế đáng kể nhờ công nghệ và chất lượng sản phẩm. Dừa Việt Nam hiện giữ được hương thơm và vị ngọt đặc trưng, được người tiêu dùng tại Mỹ và Trung Quốc đặc biệt ưa chuộng.
Ngoài ra, dừa tươi Việt Nam có ưu thế về vận chuyển, bảo quản và có thể được chế biến thành nhiều sản phẩm giá trị gia tăng như dừa khô, sữa dừa, nước dừa đóng hộp hay nguyên liệu mỹ phẩm.
Định hướng canh tác hữu cơ, thân thiện với môi trường đang là hướng đi bền vững để sản phẩm dừa Việt khẳng định vị thế trên thị trường toàn cầu./.
(TTXVN/Vietnam+)