Tự cho mình quyền sở hữu
Năm 1976, vợ chồng ông N.S và bà H.T.L mua một mảnh đất gần 4 sào ở tổ dân phố Đông Quang, phường Phổ Văn, TX.Đức Phổ (nay là phường Đức Phổ). Mảnh đất này là nơi sinh sống của cả gia đình ông S gồm có 6 người. Vợ chồng ông S cố gắng làm lụng, nuôi dạy các con trưởng thành. “Đó là tài sản chung vợ chồng tôi đổ mồ hôi mà có được. Tôi chỉ mong con cháu hòa thuận, cùng thờ phụng ông bà, chứ nào ngờ lại ra tòa thế này”, luật sư Huỳnh Ngọc Ất nói lại lời của bà L tại phiên tòa.
Sau khi cụ S mất vào năm 1994, đất chưa được phân chia. Năm 1998, người con trai trưởng của cụ S là ông N.N.S tự nhận mình có quyền sở hữu, nên đi kê khai và được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất với diện tích 1.838m²(thửa đất 560), đứng tên hộ gia đình ông. Nghĩa là, toàn bộ phần diện tích đất trên là của vợ chồng cụ S. Tuy nhiên, trên diện tích đất này có cả phần đất mà vợ chồng cụ đã cho người con thứ N.N.H (đã mất năm 2021) dựng nhà ở.
“Ông N.N.S nói đó là đất của ông ấy, nên không cho vợ chồng tôi sửa nhà bị hư hỏng sau bão. Lúc đó, mẹ tôi buồn lắm, nói đất cha mẹ làm ra, sao các con lại tranh với nhau”, bà N.T.H.N - vợ ông H nhớ lại.
Từ đó, mâu thuẫn trong các con của cụ L âm ỉ kéo dài. Không thể hòa giải, cụ L quyết định nộp đơn khởi kiện con trai mình là ông N.N.S, yêu cầu chia tài sản chung và chia thừa kế phần đất mà vợ chồng cụ tạo lập.
Vụ khởi kiện bất đắc dĩ
Tại phiên tòa phúc thẩm ngày 20/5/2025, khán phòng lặng đi khi Chủ tọa, Thẩm phán Nguyễn Đức Dũng tuyên bố khai mạc. Phía nguyên đơn là cụ L do luật sư Huỳnh Ngọc Ất là người đại diện theo ủy quyền, phía bị đơn là ông N.N.S cùng vợ là bà T.T.V. Tại phiên tòa, ông N.N.S khẳng định, thửa đất này đã được cấp sổ đỏ cho gia đình ông, không phải của cha mẹ ông.
Nguyên đất này của bà nội - cụ V.T.V mua từ năm 1978, sau đó để lại cho ông. “Thửa đất 560 là của bà nội cho tôi. Tôi ở từ năm 1987, không ai tranh chấp hơn 30 năm nay”, ông N.N.S nói. Do đó, ông N.N.S yêu cầu tòa hủy án sơ thẩm và cho rằng mẹ ông “không còn minh mẫn”. "Do mẹ tôi bị bệnh tâm thần nên tôi nghi ngờ không phải mẹ tôi là người đi thưa kiện, vì ai đời mẹ nào lại đi kiện con", ông N.N.S nói.
Một phiên tòa dân sự về đất đai mà anh em trong gia đình kiện tụng nhau.
Tuy nhiên, luật sư Huỳnh Ngọc Ất - người được cụ L ủy quyền cho rằng, cụ L vẫn tỉnh táo, đã được chính quyền xác nhận. Việc ông N.N.S tự đi kê khai đất của cha mẹ là trái đạo lý và trái luật. “Chẳng có người mẹ nào muốn kiện con của mình, nhưng đất đai của cha mẹ mà ông N.N.S tự ý đi đăng ký kê khai là sai, còn đòi đuổi cụ L ra ngoài đường", luật sư Ất nói.
Trong phần tranh tụng, tự bào chữa tại phiên tòa, chủ tọa, thẩm phán Nguyễn Đức Dũng hỏi ông N.N.S: "Ông có bằng chứng nào chứng minh thửa đất 560 là của bà V.T.V không? Ông N.N.S cúi đầu nói: "Tôi không có. Tôi chỉ nghe kể lại từ gia đình". Ngược lại, phía cụ L có nhiều nhân chứng là con gái và cháu, xác nhận thửa đất đó do vợ chồng cụ L mua từ năm 1976.
"Đó là đất cha mẹ tôi mua. Anh N.N.S được mẹ nhờ trồng hàng cau làm ranh giới phần đất đã chia cho anh H. Nay anh N.N.S lại nói đất đó không phải của cha mẹ là không đúng", bà N.T.H.V - con gái cụ L nghẹn ngào.
Điều khiến cả hội trường xúc động nhất là khi người đại diện của cụ L đọc văn bản ủy quyền: Cụ L tự nguyện giao phần đất được chia lại cho vợ và con của người con trai quá cố N.N.H. "Tôi chỉ mong con cháu H có chỗ ở ổn định, còn phần tôi nhận được, tôi giao hết lại cho tụi nó. Tôi già rồi, có bao nhiêu cũng không mang theo được", cụ L nhắn gửi.
Trên cơ sở chứng cứ tại hồ sơ và nội dung tranh tụng tại phiên tòa, đại diện Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh, bà Bùi Thị Thanh Hiền, đánh giá: Tòa sơ thẩm đã xác định đúng nguồn gốc đất và đối tượng thừa kế. Việc cụ L tự nguyện nhường phần của mình là đúng pháp luật, phù hợp tình cảm gia đình.
Công lý bảo vệ lẽ phải
Sau phần tranh tụng, Hội đồng xét xử nhận định: Nguồn gốc đất thuộc sở hữu của vợ chồng cụ N.S và H.T.L. Ông N.N.S tự kê khai và đứng tên trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mà không có sự đồng thuận của các đồng thừa kế là không đúng quy định. Cụ L còn đầy đủ năng lực hành vi dân sự và việc khởi kiện là hợp pháp.
Lời nhắc nhở về đạo lý
Trong phần nhận định pháp lý, tòa đã chỉ rõ, thửa đất 560 hình thành từ công sức tạo lập của vợ chồng cụ N.S và H.T.L, được Nhà nước cân đối theo Nghị định 64/CP. Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do ông N.N.S đứng tên một mình, không có sự đồng thuận của các thành viên trong gia đình là không phù hợp quy định. Việc cụ L yêu cầu chia tài sản chung và chia thừa kế là hoàn toàn có căn cứ. Những lập luận pháp lý ấy không chỉ là câu chữ trong hồ sơ, mà là sự khẳng định quyền lợi hợp pháp của người mẹ già, cũng là lời nhắc nhở về bổn phận hiếu nghĩa trong mỗi gia đình.
Tòa phúc thẩm bác kháng cáo của ông N.N.S, giữ nguyên phần lớn bản án sơ thẩm, đồng thời ghi nhận việc cụ L tự nguyện chuyển giao phần đất 213,6m² cho vợ con ông N.N.H quản lý, sử dụng. Còn ông N.N.S tiếp tục được giao quản lý, sử dụng 969,1m² đất, nhưng phải hoàn trả lại bằng tiền đối với phấn đất ông đang sử dụng cho mẹ mình. Đồng thời, tòa án còn tuyên hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp không đúng quy định pháp luật cho ông N.N.S.
Khi tòa tuyên án, không khí trong phòng lắng xuống. Ông N.N.S im lặng. Cụ L không có mặt vì sức khỏe yếu, nhưng người đại diện cho biết, cụ L chỉ mong sau phiên tòa này, con cháu thôi cãi vã, xem trọng tình thân để sống hòa thuận.
Khi Hội đồng xét xử đọc phần nhận định, giọng vị Chủ tọa trầm xuống. Pháp luật sinh ra không để chia rẽ tình thân, mà để bảo vệ lẽ công bằng. Những câu chữ trong bản án khô khan, nhưng mỗi lời đều thấm đẫm nhân tình. Cụ L đã 94 tuổi, vẫn đủ minh mẫn để hiểu rằng, việc bà đi kiện không phải là vì muốn lấy lại đất, mà là để giữ lại giá trị công bằng cho con cháu.
XUÂN THIÊN - QUẢNG NINH