Khi cây dược liệu trở thành sinh kế thoát nghèo
Từ nhiều thế hệ, đồng bào dân tộc ở Ba Vì đã gắn bó với rừng, coi cây thuốc là “báu vật” của núi rừng để chữa bệnh, chăm sóc sức khỏe cộng đồng. Tuy nhiên, chỉ trong khoảng hơn một thập kỷ trở lại đây, cây dược liệu mới thực sự được nhìn nhận như một hướng phát triển kinh tế có giá trị cao, phù hợp với điều kiện tự nhiên, tập quán sản xuất và văn hóa bản địa.
Xã Ba Vì nơi có đông đồng bào dân tộc Mường, Dao sinh sống là một trong những địa phương đi đầu của thành phố trong việc khai thác lợi thế dược liệu gắn với mục tiêu giảm nghèo bền vững. Theo thống kê, toàn xã hiện có trên 600ha đất nông nghiệp và lâm nghiệp, trong đó nhiều diện tích được người dân chuyển đổi sang trồng cây dược liệu xen canh với cây nông, lâm nghiệp, tiêu biểu như cà gai leo, lá khôi, thìa canh, dây gắm…
Từ nhiều thế hệ, đồng bào dân tộc ở xã Ba Vì đã gắn bó với rừng, coi cây thuốc là “báu vật” của núi rừng để chữa bệnh, chăm sóc sức khỏe cộng đồng. Ảnh: Sơn Tùng
Để tạo chuyển biến thực chất, chính quyền xã Ba Vì xác định rõ: giảm nghèo không chỉ là hỗ trợ vật chất mà quan trọng hơn là khơi dậy ý thức tự vươn lên của người dân, giảm dần tâm lý trông chờ, ỷ lại. Trên cơ sở điều kiện thực tế, xã xây dựng phương án hỗ trợ hộ nghèo, cận nghèo thoát nghèo bền vững; giao chỉ tiêu cụ thể đến từng thôn; huy động các tổ chức đoàn thể trực tiếp đồng hành, hướng dẫn người dân xây dựng mô hình trồng trọt, chăn nuôi phù hợp.
Cùng với đó, xã thường xuyên phối hợp với cán bộ kỹ thuật nông nghiệp tổ chức các lớp tập huấn về trồng, chăm sóc cây dược liệu; hướng dẫn cải tạo vườn tạp; vận động người dân chuyển đổi diện tích đất dốc, kém hiệu quả sang mô hình nông – lâm kết hợp gắn với dược liệu. Người dân cũng được hỗ trợ tiếp cận các nguồn vốn tín dụng ưu đãi để đầu tư mở rộng sản xuất.
Từ những định hướng đúng đắn này, nhiều hộ dân đã mạnh dạn đầu tư, từng bước hình thành vùng trồng dược liệu tập trung, mang lại thu nhập ổn định. Điển hình là mô hình của cộng đồng người Dao tại Ba Vì, với Hợp tác xã thảo dược dân tộc Dao Phượng Huệ do lương y Lý Thị Bích Phượng và Lý Thị Bích Huệ sáng lập năm 2016.
Trước đây, đồng bào Dao chủ yếu sử dụng thảo dược theo cách truyền thống: phơi khô, nấu nước uống hoặc tắm. Khi thành lập hợp tác xã, các bài thuốc cổ truyền được nâng tầm nhờ ứng dụng công nghệ hiện đại trong chế biến, chiết xuất. Đến nay, Hợp tác xã thảo dược dân tộc Dao Phượng Huệ đã phát triển thành công 4 sản phẩm trà dược liệu đạt tiêu chuẩn OCOP 3 sao, gồm: Trà thìa canh, trà cà gai leo, trà lá khôi và trà dây gắm.
Không dừng lại ở đó, hợp tác xã đang hoàn thiện hồ sơ để trình Bộ Y tế thẩm định nhà máy chế biến thảo dược đạt chuẩn GMP. Đây được xem là bước ngoặt quan trọng, giúp nâng cao giá trị sản phẩm, mở rộng thị trường tiêu thụ và tạo việc làm ổn định cho nhiều lao động địa phương.
Theo Lương y Lý Thị Bích Huệ người sinh ra và lớn lên ở bản làng người Dao dưới chân núi Ba Vì, tôi thấu hiểu rất rõ những khó khăn, thiếu thốn mà bà con từng trải qua. Trước đây, đồng bào Dao sống chủ yếu dựa vào nương rẫy, khai thác rừng tự nhiên, thu nhập bấp bênh, cuộc sống còn nhiều vất vả. Trong khi đó, rừng núi Ba Vì lại có rất nhiều cây thuốc quý, được cha ông truyền lại qua nhiều thế hệ nhưng chủ yếu chỉ dùng để chữa bệnh trong cộng đồng, chưa trở thành sinh kế thực sự.
"Từ chính trải nghiệm của bản thân, tôi nhận thấy cây thuốc Nam, cây dược liệu nếu được trồng, bảo tồn và chế biến đúng cách sẽ mở ra hướng thoát nghèo bền vững cho đồng bào dân tộc Dao. Khi người dân biết trân trọng tri thức bản địa, kết hợp với khoa học kỹ thuật, giá trị của cây thuốc được nâng lên gấp nhiều lần so với việc bán thô hay khai thác tự phát như trước kia", Lương y Lý Thị Bích Huệ cho hay.
Việc thành lập Hợp tác xã thảo dược dân tộc Dao Phượng Huệ không chỉ là câu chuyện làm kinh tế, mà còn là cách để bà con cùng nhau giữ rừng, giữ nghề và giữ bản sắc văn hóa. Từ những nương thuốc nhỏ lẻ, bà con đã biết trồng cây dược liệu theo quy hoạch, tuân thủ quy trình, từng bước tham gia vào chuỗi sản xuất, chế biến, tiêu thụ. Nhờ đó, nhiều hộ người Dao ở Ba Vì đã có việc làm ổn định, thu nhập khá hơn, con em được học hành đầy đủ, đời sống ngày càng khởi sắc.
Việc giảm nghèo bền vững không phải là cho con cá, mà là trao cho người dân cần câu. Cây dược liệu chính là “cần câu” phù hợp nhất với điều kiện tự nhiên và văn hóa của đồng bào Dao Ba Vì. Khi được Nhà nước quan tâm hỗ trợ về chính sách, vốn, khoa học kỹ thuật và đầu ra sản phẩm, cây thuốc Nam tiếp tục là nền tảng giúp đồng bào vươn lên làm giàu bền vững ngay trên chính mảnh đất quê hương mình.
Hiện nay, tại xã Ba Vì có 3 thôn: Hợp Sơn, Hợp Nhất, Yên Sơn được công nhận là làng nghề thuốc Nam truyền thống. Nghề thuốc phát triển mạnh ở cả 3 thôn, với khoảng 80% số hộ tham gia trồng, thu hái, sơ chế và bốc thuốc. Riêng thôn Yên Sơn có 250/250 hộ làm nghề thuốc Nam và được công nhận là Làng nghề thuốc Nam truyền thống. Toàn xã cũng đã thành lập Hội Đông y Ba Vì với 477 hội viên, góp phần gìn giữ, phát huy giá trị y học cổ truyền gắn với phát triển sinh kế.
Thực tế cho thấy, từ cây dược liệu, hàng nghìn hộ đồng bào dân tộc ở Ba Vì đã vươn lên thoát nghèo, nhiều hộ có thu nhập khá, từng bước hình thành lớp nông dân sản xuất hàng hóa gắn với tri thức bản địa, một hướng đi phù hợp với mục tiêu giảm nghèo bền vững của Thủ đô.
Khó khăn và bài toán để dược liệu thực sự giúp người dân làm giàu
Dù có nhiều tiềm năng, việc phát triển cây dược liệu ở Ba Vì vẫn đang đối mặt không ít khó khăn. Trước hết, phần lớn nguồn dược liệu hiện nay vẫn phát triển tự nhiên và bị khai thác tự phát trong thời gian dài, khiến nhiều loài cây thuốc quý dần suy giảm. Những loại cây có giá trị cao như hà thủ ô đỏ, huyết dòng, cây bổ máu… chủ yếu sinh trưởng trên núi cao, rất khó di thực và đang đứng trước nguy cơ cạn kiệt nếu không có giải pháp bảo tồn kịp thời.
Hợp tác xã thảo dược dân tộc Dao Phượng Huệ đã phát triển thành công 4 sản phẩm trà dược liệu đạt tiêu chuẩn OCOP 3 sao, gồm: Trà thìa canh, trà cà gai leo, trà lá khôi và trà dây gắm. Ảnh Sơn Tùng.
Một thách thức khác là quy mô sản xuất nhỏ lẻ. Phần lớn các hộ làm thuốc tại Ba Vì chưa đủ tiềm lực tài chính để đầu tư bài bản theo chuỗi khép kín từ trồng trọt, chế biến, tiêu thụ. Sản phẩm dược liệu của nhiều hộ vẫn dừng ở dạng thô, mẫu mã, bao bì đơn giản; việc xây dựng hồ sơ pháp lý, chứng nhận chất lượng chưa được quan tâm đúng mức, khiến giá trị kinh tế chưa tương xứng với tiềm năng.
Bên cạnh đó, bài toán tiêu thụ vẫn là “nút thắt” lớn. Việc mở rộng diện tích trồng dược liệu chỉ thực sự bền vững khi có thị trường ổn định, gắn sản xuất với chế biến sâu và tiêu thụ dài hạn. Trong khi đó, cơ chế, chính sách dành riêng cho phát triển dược liệu, nhất là dược liệu dưới tán rừng, vẫn còn thiếu và chưa đồng bộ.
Theo Thạc sĩ Vũ Văn Sơn, Phó Giám đốc Trung tâm Du lịch sinh thái và Dịch vụ, Vườn Quốc gia Ba Vì, nhiều năm qua, Vườn Quốc gia Ba Vì đã triển khai các chương trình, dự án hỗ trợ người dân trồng cây thuốc dưới tán rừng, cung cấp giống, hướng dẫn kỹ thuật, nghiên cứu bảo tồn các loài cây thuốc quý. Tuy nhiên, do là rừng đặc dụng, các hoạt động khai thác, thu hái đều bị hạn chế, chủ yếu chỉ được sưu tập giống về trồng, chưa phát huy hết tiềm năng đa giá trị của rừng.
Từ thực tiễn đó, Vườn Quốc gia Ba Vì kiến nghị cần có cơ chế, chính sách đặc thù cho phép trồng dược liệu dưới tán rừng ở những diện tích lâm phần phù hợp, vừa bảo vệ rừng, vừa tạo sinh kế bền vững cho người dân địa phương.
Ở góc độ địa phương, Chủ tịch UBND xã Ba Vì Nguyễn Giáp Đông cũng mong muốn thành phố quan tâm hơn nữa đến việc quy hoạch vùng trồng dược liệu tập trung; hỗ trợ xây dựng chuỗi liên kết sản xuất, chế biến, tiêu thụ; khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào lĩnh vực chế biến sâu, nâng cao giá trị sản phẩm. Đồng thời, cần có chính sách hỗ trợ bảo tồn nguồn gen cây thuốc quý, gắn bảo tồn với khai thác hợp lý.
Thực tiễn từ Ba Vì cho thấy, dược liệu không chỉ là nguồn tài nguyên sinh học quý giá mà còn là “chìa khóa xanh” cho mục tiêu giảm nghèo bền vững. Khi tri thức bản địa được tôn trọng, khoa học công nghệ được ứng dụng và chính sách được hoàn thiện, cây dược liệu hoàn toàn có thể trở thành trụ cột kinh tế, giúp đồng bào dân tộc thiểu số ổn định cuộc sống, làm giàu chính đáng, góp phần bảo tồn giá trị văn hóa, sinh thái độc đáo của Thủ đô Hà Nội.
Bạch Thanh