Những hiện vật nhắc nhớ về cuộc Tổng tuyển cử Quốc hội đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (6/1/1945).
Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời trong niềm vui sướng, hân hoan của cả một dân tộc thoát kiếp nô lệ, sống đời tự do. Tuy nhiên, hậu quả nặng nề từ chế độ cai trị, thuộc địa hà khắc, ác nghiệt của thực dân Pháp áp đặt trên đất nước ta và toàn cõi Đông Dương gần một thế kỷ và âm mưu của chúng đặt chính quyền cách mạng non trẻ vào tình thế “ngàn cân treo sợi tóc”. Gót giày thực dân không chỉ chà đạp lên quyền được sống, được tự do, mưu cầu hạnh phúc của Nhân dân ta mà chính sách vơ vét tài nguyên, “làm cho u mê để thống trị” đã đẩy cuộc sống người dân vào cùng cực, nạn đói, nạn dốt như bóng ma đeo đẳng. Ngân sách Nhà nước trống rỗng; ngoại xâm và nội phản thì thủ đoạn, tâm cơ.
Để nhanh chóng tháo gỡ khó khăn, thách thức, bảo vệ và củng cố chính quyền cách mạng non trẻ, chỉ 1 ngày sau khi đọc bản Tuyên ngôn Độc lập, ngày 3/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chủ trì phiên họp đầu tiên của Hội đồng Chính phủ, đề ra sáu nhiệm vụ cấp bách cần làm ngay: giải quyết nạn đói; mở chiến dịch chống nạn mù chữ; xây dựng hiến pháp dân chủ; tổ chức Tổng tuyển cử với chế độ phổ thông đầu phiếu; mở một chiến dịch giáo dục tinh thần Nhân dân bằng cách: Cần, Kiệm, Liêm, Chính; bỏ các thuế thân, thuế chợ, thuế đò, tuyệt đối cấm hút thuốc phiện; thực hiện tín ngưỡng tự do và lương - giáo đoàn kết.
Sau Cách mạng Tháng Tám thành công, tình hình kinh tế - xã hội của tỉnh Thanh Hóa vô cùng khó khăn, kiệt quệ. Tuy nhiên, Đảng bộ, chính quyền và Nhân dân tỉnh Thanh Hóa không nề nao núng, đoàn kết một lòng, vừa bám sát, nghiêm chỉnh chấp hành các chỉ thị của Trung ương Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh vừa có sự linh hoạt, sáng tạo phù hợp với hoàn cảnh, thực tiễn địa phương, không ngừng nỗ lực cố gắng để bảo vệ và củng cố chính quyền cách mạng non trẻ, xây dựng Thanh Hóa thành hậu phương lớn trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp sau này.
Hưởng ứng lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh, ngày 6/1/1946, cùng với cử tri cả nước, 96% cử tri trong toàn tỉnh vô cùng phấn khởi, háo hức cầm trên tay lá phiếu bầu cử Quốc hội đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Dẫu đã ở cái tuổi xưa nay hiếm, chuyện quên/nhớ đã là lẽ thường tình nhưng ký ức về ngày bầu cử Quốc hội đầu tiên ấy mãi in đậm trong tâm trí cụ Thiều Quang Mộc, nguyên Chủ tịch Ủy ban Hành chính thị xã Thanh Hóa giai đoạn 1972-1984: “Trước đó, chúng tôi đâu có biết bầu cử là thế nào. Tuy nhiên, phát huy tinh thần xông xáo, sáng tạo của tuổi trẻ, chúng tôi cũng đi huy động, mượn các loại vật liệu như luồng, cót... để làm thành các cổng chào treo lên, lấy mùn than đen viết những câu khẩu hiệu, tuyên truyền: “Sáng suốt lựa chọn, bầu cử những người tiêu biểu vào Quốc hội”, “Việt Nam Dân chủ Cộng hòa muôn năm”, “Việt Nam độc lập - tự do - hạnh phúc muôn năm”.
Diễn ra trong điều kiện thiếu khó nhưng cuộc tổng tuyển cử đầu tiên của Nước Việt Nam Dân chủ Cộng Hòa nói chung, tỉnh Thanh Hóa nói riêng được chuẩn bị và tiến hành chu đáo, trang trọng. Công tác tuyên truyền, cổ động diễn ra sôi nổi với nhiều hình thức đa dạng, phong phú. Trên những tấm áp phích, nét vẽ mộc mạc, giản dị, mang tính biểu tượng, khái quát cùng các câu khẩu hiệu dễ nhớ, dễ thuộc, giá trị biểu đạt cao... Cuộc bầu cử diễn ra theo đúng nguyên tắc dân chủ, tiến bộ, đó là: phổ thông, bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kín. Kết quả cuối cùng, 14 đại biểu ở Thanh Hóa đã trúng cử. Cùng với việc bầu cử Quốc hội, cử tri các dân tộc trong tỉnh đã tiến hành bầu đại biểu Hội đồng Nhân dân các cấp; Ủy ban Hành chính các cấp cũng được thành lập.
Cuộc Tổng tuyển cử ngày 6/1/1946 là sự kiện trọng đại, mở đầu cho quá trình xây dựng chế độ dân chủ mới, đặt những “viên gạch” đầu tiên cho lịch sử hình thành và phát triển Quốc hội. Quốc hội Việt Nam ra đời vừa là thành quả, vừa là yêu cầu bức thiết của cách mạng. Đó là Quốc hội của độc lập dân tộc, của đại đoàn kết toàn dân.
Cùng với việc xây dựng hệ thống chính trị, một trong những nhiệm vụ cấp bách, được Đảng bộ và chính quyền cách mạng tỉnh Thanh Hóa đặc biệt quan tâm, tập trung giải quyết ngay sau Cách mạng Tháng Tám thành công là nhanh chóng “diệt giặc đói”, “giặc dốt”, ổn định đời sống Nhân dân, bước đầu xây dựng nền kinh tế, văn hóa – xã hội của chế độ mới. Cuối năm 1945, toàn tỉnh đã quyên góp được 1.076 tấn gạo để cứu đói. Chỉ trong một thời gian ngắn, Nhân dân trong tỉnh đã ủng hộ được 528 lạng vàng, 84kg bạc và hàng chục tấn đồng...
Thấm nhuần ý nghĩa câu nói của Chủ tịch Hồ Chí Minh - “một dân tộc dốt là một dân tộc yếu”, song song với nhiệm vụ diệt “giặc đói”, tỉnh Thanh Hóa quyết liệt đấu tranh với “giặc dốt”. Từ tháng 9/1945, Thanh Hóa đã thành lập Nha Bình dân học vụ và Ty Thanh tra tiểu học, cùng với đó triển khai nhiều biện pháp tích cực hưởng ứng phong trào “diệt giặc dốt” và xây dựng nền giáo dục dân chủ mới.
Nắng tháng Tám đã trải vàng trên những con đường của xã Hoằng Lộc. Tại mảnh đất này cách đây 80 năm, phong trào “diệt giặc dốt” được phát động, hưởng ứng nhiệt tình với nhiều việc làm thiết thực, ý nghĩa, được tỉnh công nhận là xã có phong trào bình dân học vụ tốt, được Chính phủ công nhận xóa xong nạn mù chữ và được tặng thưởng Huân chương Lao động hạng Ba (năm 1958).
Những ngày phong trào Bình dân học vụ của xã Hoằng Lộc diễn ra sôi nổi, ông Lê Huy Sâm (94 tuổi, xã Hoằng Lộc) khi ấy mới là cậu thiếu niên khoảng chừng 14, 15 tuổi. Tuy nhiên, do từ nhỏ đã ham học, sinh ra trong gia đình nhà Nho, trọng chữ nghĩa nên ông Sâm sớm đọc thông viết thạo. Bởi vậy, ngay sau khi Bác Hồ phát động phong trào “diệt giặc dốt”, ông tích cực tham gia dạy các lớp bình dân học vụ tại địa phương. Ông Sâm cho biết: “Thời ấy lớp học tổ chức đơn giản lắm. Người biết chữ dạy cho người không biết chữ, con cái dạy cho bố mẹ, cháu dạy cho ông bà là điều bình thường. Giờ học được sắp xếp vào buổi trưa, hoặc buổi tối để ban ngày tham gia sản xuất”.
Ông Lê Huy Sâm (94 tuổi, xã Hoằng Lộc) - người từng tham gia dạy các lớp bình dân học vụ sau khi Cách mạng Tháng Tám thành công tại xã Hoằng Lộc.
Trong những căn nhà đơn sơ, nhỏ hẹp, ánh đèn leo lét, tiếng tập đọc vang lên khắp thôn, xóm đã tạo nên không khí sôi động, thôi thúc mọi người hăng hái học tập. Khẩu hiệu “Đi học là yêu nước” và nhiều thơ ca, hò vè đề cập việc học hành đã khích lệ phong trào dạy và học. Ông Sâm cho biết thêm: “Bên cạnh việc tuyên truyền, vận động, thuyết phục để mọi người tự giác tham gia học tập, chính quyền và Ban bình dân học vụ xã, thôn đã sáng tạo nhiều biện pháp huy động mọi người đi học như: đón đường hỏi chữ, dựng hai cổng “vinh quang” và “mù chữ” tại chợ Quăng và cổng làng để biểu dương người biết chữ và khiển trách ai chưa biết chữ. Ai biết chữ được đi cổng Vinh Quang, ai không biết chữ phải đi qua cổng “mù chữ”...
Nhờ nhận thức đúng đắn, hưởng ứng nhiệt tình, trách nhiệm như thế, ngoài xã Hoằng Lộc, nhiều địa phương của tỉnh được Bác Hồ gửi thư khen và được đón nhận Huân chương Lao động do có thành tích trong phong trào xóa nạn mù chữ. Phong trào bình dân học vụ trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa tiếp tục được phát triển mạnh, sâu rộng và giành được nhiều thắng lợi trong suốt những năm tháng kháng chiến chống thực dân Pháp sau này.
Chỉ trong một thời gian ngắn, Đảng bộ, chính quyền và Nhân dân các dân tộc tỉnh Thanh Hóa đã vượt qua nhiều khó khăn, thử thách để bảo vệ và củng cố chính quyền cách mạng ở các cấp, từ cấp tỉnh đến cơ sở; bước đầu khôi phục sản xuất, đẩy lùi “giặc đói”, “giặc dốt”, ổn định cuộc sống cho Nhân dân. Để rồi từ đây, quân và dân Thanh Hóa tiếp tục gánh vác sứ mệnh lịch sử quan trọng, tích cực chuẩn bị mọi mặt đối phó với âm mưu của thực dân Pháp đang lăm le trở lại, xâm chiếm nước ta một lần nữa n
Bài viết sử dụng tư liệu trong cuốn sách “90 năm Đảng bộ tỉnh Thanh Hóa (1930-2020) – Những dấu ấn và thành tựu nổi bật (NXB Thanh Hóa, 2020) của Hội Khoa học Lịch sử Thanh Hóa. "Lịch sử Đảng bộ xã Hoằng Lộc 1953-2005”.
Bài và ảnh: Thảo Linh