Một góc Tân Đô xanh mướt, tuyệt đẹp.
Đình làng - nơi hồi sinh ký ức
Con đường vào Tân Đô, xã Văn Lăng (trước thuộc xã Hòa Bình, Đồng Hỷ) chạy quanh co mềm mại theo những triền chè xanh mướt, xen lẫn đó là những mái nhà sàn phủ rêu nép mình dưới tán cây ăn quả.
Tân Đô nhỏ bé, chỉ có 123 hộ, 475 nhân khẩu, gần 90% là đồng bào Nùng. Bà con nơi đây gìn giữ gần như trọn vẹn phong tục, tập quán truyền qua nhiều thế hệ. Người dân ở Tân Đô sống nhờ hai vụ lúa, một vụ ngô, thêm chè và rừng. Chừng ba chục lao động trong xóm đi làm xa, còn lại vẫn gắn bó với đất, chắt chiu nếp làng.
Bà Âu Thị Lan, Bí thư Chi bộ kiêm Trưởng ban Công tác Mặt trận đón chúng tôi bằng chén trà xanh sóng sánh. Bà Lan tự hào về nơi mình đang sống: Cái quý nhất của Tân Đô có lẽ là 67 ngôi nhà sàn, trong đó nhiều nhà gần như còn nguyên bản. Có nhà hơn trăm tuổi, gỗ nghiến, cột lim, mái ngói máng. Sau này, nhiều nhà làm mới nhưng phần lớn cũng là nhà sàn.
Có những ngôi nhà hơn trăm tuổi, gỗ nghiến, cột lim, mái ngói máng. Quan trọng hơn cả là trong những ngôi nhà sàn ấy dù đã có thêm những đồ vật tiện nghi như ti vi, tủ lạnh... nhưng vẫn giữ được “hồn của người Nùng” trong từng nếp nhà.
Nghe bà Lan kể, tôi hiểu thêm rằng những phong tục lâu đời vẫn được người Tân Đô gìn giữ cẩn trọng: Đêm 30 Tết, nhà nào cũng mổ gà trống thiến, dựng cây nêu trước sân; đến mùng 10 tháng Giêng, bà con dọn sạch lá gói bánh chưng còn sót lại rồi mang thả xuống nước để mong mọi thành viên trong gia đình được mát lành cả năm; rằm tháng Giêng làm lễ hạ nêu... Những nghi thức tưởng giản dị ấy lại ẩn chứa triết lý sống sâu xa mà chẳng ai cần cắt nghĩa.
Một trong những ngôi nhà cổ nhất xóm hiện do vợ chồng anh Lâm Văn Quyết sở hữu.
Một trong những ngôi nhà cổ nhất xóm nay thuộc về vợ chồng anh Lâm Văn Quyết. Ngôi nhà sàn 54 cột, ván bưng bằng gỗ nghiến đã nhuốm màu thời gian. Trên sàn, bếp lửa quanh năm vẫn rực than hồng, ngọn lửa giữ ấm nếp nhà, gắn kết bao thế hệ.
Truyền thống ấy, vợ chồng anh Quyết và các con vẫn trân trọng gìn giữ. Chỉ những quy định khắt khe thuở trước, như việc phụ nữ phải ngồi ở vị trí nhất định trong nhà, nay đã lùi vào ký ức, trở thành chuyện kể bên bếp lửa những đêm đông.
Những song cửa, mái ngói còn in dấu thời gian.
Trong giai đoạn 2022-2024, dự án Bảo tồn làng văn hóa truyền thống dân tộc Nùng gắn với phát triển kinh tế và du lịch cộng đồng ở Tân Đô được triển khai. Các hạng mục chính gồm: phục dựng, tôn tạo đình làng; xây dựng nhà sinh hoạt cộng đồng; bảo tồn mẫu nhà cổ và những giá trị văn hóa phi vật thể.
Theo bước chân bà Lan, chúng tôi ghé thăm ngôi đình, “trái tim” văn hóa của cộng đồng. Đình Tân Đô là điểm sinh hoạt văn hóa, tín ngưỡng của nhân dân trong xóm, được xây dựng từ khoảng đầu thế kỷ XX.
Đình thờ các vị thần: Cao Sơn Quý Minh Đại Vương, Đức Ông Tổng Đốc Đô Đốc Đại Thần, Đức Ông Linh Vân Kỷ Sỹ Đại Thần... Các vị này theo tương truyền đã có công lao đánh trừ phỉ tặc, bảo vệ dân làng, giữ yên bờ cõi.
Đình Tân Đô nay đã được phục dựng khang trang trên gò đất thoai thoải, với nhà chữ Đinh, diện tích gần 60m², mái ngói mũi hài cong vút. Trong đình thờ các vị thần linh, bậc tiền nhân từng khai khẩn đất đai, lập làng, giữ yên bờ cõi.
Mỗi dịp mùng 4 tháng Giêng, nơi đây lại bừng lên lễ hội. Người Tân Đô trong khoảnh khắc ấy như đi ngược dòng thời gian, để hiện tại gặp gỡ cội nguồn, để như được nói với ông cha rằng truyền thống xưa vẫn hiện diện trong đời sống hôm nay.
Nhà sinh hoạt cộng đồng của người dân Tân Đô.
Ngay bên cạnh đình là nhà sinh hoạt văn hóa cộng đồng mới dựng, theo kiến trúc truyền thống của người Nùng: 54 cột gỗ kê trên chân đá tảng, vì kèo, xà, rui... đều bằng gỗ, mái ngói máng phủ dày, rộng gần 200m². Công trình vừa khang trang vừa gần gũi, trở thành không gian sinh hoạt, nơi gìn giữ và lan tỏa bản sắc Tân Đô.
Giữ hồn xưa trong từng nếp nhà
Chúng tôi ghé thăm gia đình bà Bế Thị Yên, chủ nhân ngôi nhà sàn rộng gần 190m², dựng từ năm 1975 với 56 cột gỗ nghiến chắc nịch.
Bà Yên cười hiền, kể: Nhà tôi được chọn tham gia dự án nên được nâng cột bằng đá liền khối cao thêm 50cm, xây nhà vệ sinh hai tầng, làm sân bê tông gần 80m² và đổ hơn 50m đường dẫn vào nhà. Cuộc sống tiện lợi hơn nhiều, nhưng nếp nhà thì vẫn như trước. Chúng tôi mong sẽ có dịp đón du khách đến ở, để họ hiểu hơn về cách sống của người Nùng cũng như cảm nhận được cái tình của người Tân Đô.
Ngôi nhà của gia đình bà Bế Thị Yên đang tiếp tục được đầu tư, cải tạo.
Không xa đó là ngôi nhà của ông Lý Hồng Thái, nằm bình yên giữa vườn cây sum suê. Ông Thái tiếp chúng tôi trong gian sàn thoáng mát, giọng trầm chậm rãi: Các hộ được hỗ trợ đều ở gần nhà văn hóa. Mỗi gia đình được tu sửa theo tình trạng cụ thể, không hẳn các hạng mục đã giống nhau. Chúng tôi còn được đi học hỏi mô hình homestay ở nhiều nơi trong tỉnh. Từ đó, tôi và các con bàn nhau chỉnh lại khu vườn, để khách đến ở sẽ có được những ấn tượng tốt nhất.
Ông Thái sinh ra và lớn lên trong một gia đình có truyền thống cách mạng. Bố của ông Thái đã hy sinh trước ngày đất nước hoàn toàn hòa bình chỉ 20 ngày. Có lẽ cũng vì thế mà ông càng trân trọng nếp nhà, coi việc gìn giữ ngôi nhà sàn này như một cách để tiếp nối công sức và ký ức của cha ông, cũng như lời tự nhắc mình rằng sự hy sinh của thế hệ trước đã hóa thành bình yên cho hôm nay.
Ngôi nhà khang trang của gia đình ông Lý Hồng Thái đã sẵn sàng đón du khách.
Khi dự án bảo tồn khép lại, một hành trình mới của Tân Đô mới bắt đầu. Năm hộ được hỗ trợ giờ đã sẵn sàng mở cửa đón khách trải nghiệm du lịch cộng đồng. Du khách đến đây có thể mặc áo chàm, học hát sli, cùng bà con dựng cây nêu đêm 30 Tết, xuống đồi hái chè rồi sao thủ công trên bếp củi đỏ lửa.
Ánh mắt bà Âu Thị Lan ánh lên niềm hy vọng: Người Tân Đô chúng tôi sẽ tự kể câu chuyện của mình với du khách, để ai một lần đến cũng mang theo chút hồn làng khi trở về.
Chiều buông, tiếng trẻ nô dưới hiên, giọng sli văng vẳng từ nhà văn hóa. Ở Tân Đô, bảo tồn không đồng nghĩa với đứng yên, mà phát triển bắt đầu từ chính những giá trị xưa.
Kim Ngân