Nơi đây được cho là vùng địa linh nhân kiệt của xứ Đoài, đã sản sinh ra những nhân vật tinh hoa, lừng lẫy trong suốt chiều dài lịch sử dân tộc như: Bà Man Thiện (mẫu thân của Hai Bà Trưng), hai vua Phùng Hưng, Ngô Quyền, Thám hoa Giang Văn Minh, bà Ngô Thị Ngọc Diệu, tức bà chúa Mía (người tôn tạo tu bổ chùa Mía, cung phi của chúa Trịnh Tráng), Khâm sai đại thần - Thám hoa Kiều Mậu Hãn, Phó Thủ tướng Phan Kế Toại, Bộ trưởng Bộ Thủy lợi Hà Kế Tấn, họa sĩ Phan Kế An...
Ngôi nhà cổ gần 400 năm ở Đường Lâm.
Lưu giữ hồn Việt
Từ thôn Vân Gia (phường Trung Hưng, thị xã Sơn Tây) đi qua một cánh đồng, cách làng Phụ Khang khoảng 400m có một ngôi quán cổ nằm yên bình dưới tán bàng rợp bóng. Đây chính là nơi quàn thi hài của Thám hoa Giang Văn Minh do người thân và nhân dân trong vùng lập lên khi cụ bị sát hại bên Trung Quốc, rồi được đưa về quê nhà (năm 1638).
Hàng bao đời nay, mỗi khi đi qua ngôi quán này, hẳn nhiều người còn cảm phục, ngưỡng mộ khí phách của một chánh sứ, nhà ngoại giao kiệt xuất, người dẫu chịu hiểm nguy, hy sinh cả tính mạng chứ không chịu nhục quốc thể với vế đối nổi tiếng: “Đằng giang tự cổ huyết do hồng” (Sông Bạch Đằng từ xưa máu còn đỏ).
Cầu Vang bắc qua sông Tích nối hai làng Phụ Khang và Mông Phụ, toàn bộ trụ, mố cầu được làm bằng đá ong, một loại đá được coi là “chỉ dấu” của xứ Đoài. Hiện nay, để đảm bảo giao thông an toàn đã có cây cầu bê tông thay thế cho cây cầu cũ. Cây cầu đá ong có tuổi đời gần 100 năm vẫn đêm ngày soi bóng xuống dòng sông Tích, lưu dấu bao phận đời, bao bóng hình con dân Đường Lâm.
Nhà văn Hà Nguyên Huyến, một người con yêu ngôi làng cổ như báu vật từng chia sẻ: dưới trụ, mố cầu Vang là nơi trú ngụ của loài trạch trấu nổi tiếng thơm ngon. Ông từng có tuổi thơ êm đềm, tươi đẹp nơi cây cầu này với những buổi đào giun làm mồi câu trạch. Từ cây cầu đến cổng làng Mông Phụ là hàng loạt các công trình cổ: quán Lồ Biêu, quán Rô, chùa Ón ngự giữa cánh đồng bốn mùa xanh rì rào ngô lúa, làm cho vùng đất này thêm xưa cũ, nên thơ.
Bước qua cổng làng Mông Phụ có tuổi gần 500 năm là cả một thế giới mà mọi thứ dường như đang chậm lại, quay về thời quá vãng với ngôi đình ở địa thế ngã 6, đẹp nhất làng. Đây là nơi thờ tự, ghi nhớ công đức của Bố Cái Đại vương Phùng Hưng. Tổng thể công trình là sự kết hợp hài hòa giữa kiến trúc Việt - Mường cổ với nghệ thuật điêu khắc điển hình thời Hậu Lê. Nhiều cổ vật trong ngôi đình vẫn được người dân gìn giữ.
Bên trái tòa đại đình có một cái mõ cá trắm lớn rất ấn tượng với nhiều người đến thăm ngôi đình. Ông từ giữ đình làng giảng giải theo quan niệm dân gian xưa, loài cá không bao giờ nhắm mắt nên ở các công trình cổ thường có tạo hình cá chép, cá trắm với ý nghĩa biểu tượng cho nghị lực, hy vọng, sự tinh tấn trong niềm tin, tu tập... Trong làng còn hàng trăm công trình cổ có tuổi đời từ 100 đến gần 500 năm, gồm nhà ở, từ đường, nhà thờ họ, quán, giếng nước...
Điểm nhấn ở các thôn Đông Sàng, Cam Lâm là ngôi chùa cổ có tên chữ Sùng Nghiêm Tự (dân gian thường gọi là chùa Mía), đền thờ Bố Cái Đại vương Phùng Hưng, đền thờ vua Ngô Quyền. Các công trình mang vẻ đẹp hài hòa trong kiến trúc và nghệ thuật điêu khắc của người Việt, lưu dấu những giá trị trường tồn về lịch sử, văn hóa, tín ngưỡng, tâm linh,...
Rặng duối cổ cách đền thờ vua Ngô Quyền không xa trải qua hàng ngàn năm vẫn bền bỉ xanh cùng tuế nguyệt. Tương truyền, rặng duối là nơi đội quân của Ngô Quyền buộc voi, ngựa, dài đến hàng cây số, nhưng do sự di biến của thời gian, giờ chỉ còn lại 20 cây. Mỗi khi có cơn gió trườn qua cánh đồng, lướt trên rặng ruối nghe như có tiếng quân reo, voi rầm, ngựa hí muôn năm cũ vọng về.
Những người tiếp nối mạch làng
Những năm gần đây, du lịch tâm linh, văn hóa phát triển mạnh, làng cổ Đường Lâm trở thành điểm đến đầy quyến dụ đối với du khách trong và ngoài nước. Ý thức được những giá trị quý báu mà ông cha để lại cho hậu thế, mỗi người dân làng cổ đều lặng thầm cống hiến tâm sức từ hành động nhỏ đến những việc lớn để gìn giữ và lan tỏa những nét đẹp vật thể và phi vật thể của làng.
Dạo bộ quanh làng Mông Phụ, Đông Sàng, Cam Lâm... không hiếm gặp những gian quán nhỏ của các bà lão hiền lành với rất nhiều thức quà quê gợi nhớ, gợi thương năm tháng xa xôi: chiếc bánh đa vừng giòn tan, gói kẹo lạc ngậy ngọt, phong chè lam dẻo thơm hương nếp đồng làng, bát nước chè xanh đằm đượm, cốc nước vối dịu mát trưa hè,...
Ngồi bên chõng tre, nhâm nhi chiếc kẹo lạc, nhấp một ngụm trà, nghe các bà rủ rỉ kể chuyện xóm, chuyện làng sẽ thấy dù bao năm tháng đi qua, bao di biến thì văn hóa làng, tình làng vẫn như mạch nước ngầm nguyên khiết chảy mãi trong từng thớ đất, ngôi nhà, con đường, bóng cây và trong lòng mỗi con dân của làng.
Ông Nguyễn Văn Hùng kể chuyện về làng cổ.
Trong ngôi nhà cổ xây dựng từ năm 1780 của cụ Đốc học Đỗ Doãn Chính, du khách sẽ được bà Đỗ Minh Nguyệt, hậu duệ đời thứ 5 của cụ Chính, giáo viên dạy Sử đã nghỉ hưu giới thiệu về kiến trúc của ngôi nhà và những công trạng, tâm đức của ông cha. Ngôi nhà của quan Đốc học gồm 5 gian (3 gian chính là nơi thờ tự, tiếp khách, 2 gian ngoài cùng để ngủ nghỉ), ngưỡng cửa khá cao so với các nhà thường dân cùng thời. Ngoài làm quan, cụ Chính còn là nhà Nho, thầy đồ nổi tiếng một vùng. Ngưỡng cửa cao để mỗi khi học trò hay thường dân vào nhà đều phải cúi thấp đầu chào thầy - quan Đốc học.
Các cổ vật được các thế hệ con cháu cụ giữ gìn, quý nhất là đôi võng vua ban ngày cụ Chính vinh quy bái tổ, tượng Phật Bà Quan Âm và bức tranh bát tiên quá hải có niên đại hơn 200 năm, đôi câu đối lưu bút tích của cụ, chiếc ô và cây chổi lông gà sinh thời cụ vẫn dùng.
Ngôi nhà được dòng họ giao cho ông bà Đỗ Doãn Dương - Dương Thị Lan, là cháu trai và cháu dâu đời thứ 8 của cụ Chính trông nom. Từng chứng kiến tình cảm sâu đậm, thiêng liêng của chồng dành cho ngôi nhà nên sau khi ông Dương khuất núi, bà Lan vẫn đêm ngày chăm sóc ngôi nhà của gia đình chồng như nắm giữ một viên ngọc. Và khi nào nhắm mắt về với tổ tiên thì bà sẽ trao lại cho con cháu.
Một trong những ngôi nhà cổ có niên đại lâu đời, còn giữ được gần như nguyên trạng ban đầu là ngôi nhà xây dựng năm 1649, hiện tại gia đình ông Nguyễn Văn Hùng là thế hệ thứ 12 đang chăm sóc, sử dụng khai thác. Ngôi nhà gỗ 5 gian, có diện tích hơn 100m2. Từ cổng đến tường nhà được xây dựng từ đá ong, kết nối bằng vữa (bã trấu và bùn).
Năm 2008, đại diện Bộ Văn hóa, Cơ quan Hợp tác quốc tế Nhật Bản (JICA) đã phối hợp với một số cơ quan chức năng và gia chủ tiến hành trùng tu công trình làm cho ngôi nhà giữ được kết cấu vững chắc, cách bài trí, sắp xếp các đồ vật cũng hợp lý, tiện cho sinh hoạt của gia chủ và chiêm ngưỡng của khách tham quan. Từ cổng, sân vườn, ba gian nhà chính, nhà bếp, khu chế biến chè lam, bánh bỏng, kẹo vừng, chòi tiếp khách,... được chăm chút kĩ lưỡng.
Bước vào bên trong khuôn viên ngôi nhà tưởng như thời gian đang nhỏ giọt bởi lích rích tiếng chim chích ken vòm lá, rập rờn một cánh bướm giỡn đóa mai khôi, lốm đốm rêu xanh dưới chân cây cổ mộc... Nhà cổ của gia đình nhà văn Hà Nguyên Huyến, gia đình ông Hà Văn Thể cũng thuộc hàng “đỉnh”, thường được du khách lựa chọn ghé thăm. Mỗi ngôi nhà đều gắn với câu chuyện đời người, dòng họ. Toàn bộ khuôn viên, cấu trúc và những thứ hiện hữu hoặc không hiện hữu trong nhà đã tạo nên một bảo tàng thu nhỏ về văn hóa làng đặc trưng của đồng bằng Bắc Bộ.
Một điều dễ nhận thấy khi tiếp xúc với gia chủ của các ngôi nhà cổ trong làng, là tình yêu, niềm tự hào của họ đối với những di sản mà ông cha đã trao truyền cho thế hệ cháu con. Có lẽ, chính niềm tự hào ấy đã góp phần tạo nên một cái mạch âm ỉ, dạt dào, bền bỉ trong mỗi con người nơi đây - mạch làng.
Quang Minh