Đường sắt cao tốc Bắc – Nam: Quyết sách chiến lược, động lực đổi mới

Đường sắt cao tốc Bắc – Nam: Quyết sách chiến lược, động lực đổi mới
14 giờ trướcBài gốc
Đòn bẩy kinh tế mới
ĐSTĐC của Nhật Bản được gọi là Shinkansen bắt đầu hoạt động vào năm 1964, tại một đoạn tuyến dài 515km giữa Tokyo và Osaka. Tại thời điểm khai trương, tốc độ tối đa 210km/giờ, nhưng hiện tại tốc độ lên tới 285km/giờ, Shinkansen giúp giảm thời gian di chuyển giữa các TP lớn như Tokyo và Osaka từ khoảng 6 giờ bằng ô tô xuống chỉ còn 2,5 giờ.
Ảnh minh họa
Shinkansen không chỉ là một bước tiến kỹ thuật mà còn là động lực kinh tế lớn, tạo ra hàng nghìn việc làm trong các giai đoạn xây dựng, vận hành và duy trì. Trong giai đoạn xây dựng, các ngành nghề như xây dựng hạ tầng, kỹ thuật cầu đường, cơ khí, và thiết kế tàu đã tuyển dụng số lượng lớn lao động. Khi đi vào vận hành, hệ thống Shinkansen tiếp tục duy trì công việc ổn định cho các nhóm lao động trong quản lý vận hành, điều khiển tàu, bảo trì kỹ thuật, dịch vụ khách hàng, an ninh và vệ sinh. Ngoài ra, các ngành công nghiệp phụ trợ và dịch vụ hậu cần cũng được hưởng lợi, góp phần phát triển chuỗi cung ứng trong nước và thúc đẩy năng lực công nghiệp quốc gia.
Mặc dù ban đầu được thiết kế để phục vụ cả hành khách và hàng hóa, nhưng sau đó Shinkansen đã chuyển hoàn toàn sang phục vụ hành khách do nhu cầu quá lớn và yêu cầu bảo trì đặc biệt cao – thường được thực hiện vào ban đêm. Việc tách khỏi mạng lưới đường sắt truyền thống cũng giúp tránh được các vấn đề từ cơ sở hạ tầng cũ kỹ và xung đột với các chuyến tàu thường, bảo đảm an toàn và độ chính xác cao – đặc trưng của hệ thống Shinkansen. Trước đây, Shinkansen được phát triển ở một khu vực có nhu cầu vận tải lớn, nhưng ngày nay nó đang mở rộng ra khắp cả nước nhằm đóng góp cho sự phát triển của vùng.
Kể từ sau những cải cách chính trị vào năm 1978, Trung Quốc đã đạt được tốc độ tăng trưởng kinh tế vượt bậc, với GDP trung bình tăng khoảng 10% mỗi năm trong suốt ba thập kỷ. Thành tựu này có được nhờ vào việc chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường và chiến lược đầu tư mạnh mẽ vào cơ sở hạ tầng, đặc biệt là lĩnh vực giao thông vận tải. Để thúc đẩy năng suất kinh tế và giải quyết những nút thắt trong hệ thống logistics, Trung Quốc đã tiến hành hiện đại hóa mạng lưới giao thông đường bộ và đường sắt. Trong đó, một trụ cột quan trọng là phát triển mạng lưới ĐSTĐC. Chính sách này đã giúp giải quyết tình trạng tắc nghẽn, nâng cao hiệu quả vận tải và tạo động lực phát triển kinh tế ở các khu vực có điều kiện hạ tầng còn yếu.
Bên cạnh việc mở rộng mạng lưới mới, Trung Quốc cũng chú trọng cải thiện tốc độ trên các tuyến đường sắt hiện hữu nhằm nâng cao năng suất vận tải. Từ năm 1997 - 2007, Bộ Đường sắt đã triển khai sáu đợt nâng cấp tốc độ khai thác, nhằm cải thiện năng lực vận hành trước khi đưa ĐSTĐC vào sử dụng rộng rãi. Một điểm nổi bật trong chiến lược của Trung Quốc là tư duy phát triển mạng lưới liên kết tổng thể, thay vì chỉ tập trung vào các hành lang giao thông đơn lẻ. Chính phủ Trung Quốc đặt ra mục tiêu đầy tham vọng: đến năm 2020, sẽ kết nối tất cả các thủ phủ tỉnh có dân số trên 500.000 người và bảo đảm 90% dân số cả nước có thể tiếp cận dịch vụ ĐSTĐC. Có thể thấy rõ, việc triển khai mạng lưới ĐSTĐC quy mô lớn đã mang lại lợi ích kinh tế to lớn, đặc biệt là trong việc tạo công ăn việc làm và kích thích phát triển khu vực.
Các TP và khu vực nằm gần các nhà ga ĐSTĐC đã trở thành điểm thu hút đầu tư mới nhờ khả năng kết nối nhanh với các trung tâm kinh tế lớn. Điều này góp phần tái phân bố dân cư và hoạt động kinh tế, giảm áp lực cho các đô thị lớn và thúc đẩy phát triển vùng nội địa. Nhờ rút ngắn đáng kể thời gian di chuyển, ĐSTĐC đã giúp DN và người dân tối ưu hóa chi phí vận chuyển, mở rộng thị trường và nâng cao hiệu quả hoạt động. Điều này góp phần vào việc tăng trưởng năng suất lao động quốc gia. Với khả năng di chuyển nhanh, tiện lợi và an toàn, ĐSTĐC tạo điều kiện thuận lợi cho ngành du lịch nội địa phát triển, kéo theo nhu cầu về dịch vụ lưu trú, ăn uống và mua sắm, từ đó kích thích tiêu dùng và tăng trưởng kinh tế.
Một tuyến đường - một khát vọng Việt Nam
Trong nền kinh tế hiện đại, khả năng kết nối nhanh, hiệu quả giữa các trung tâm kinh tế là yếu tố sống còn để nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia. Tuyến ĐSTĐC Bắc – Nam, với vận tốc thiết kế 350km/h, chính là lời giải cho bài toán liên kết vùng và phát triển đồng bộ.
Ngày 23/4, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 106/NQ-CP về kế hoạch triển khai Nghị quyết số 172/2024/QH15 ngày 30/11/2024 của Quốc hội về chủ trương đầu tư Dự án ĐSTĐC trên trục Bắc - Nam. Bộ Xây dựng được giao chủ trì, phối hợp với các cơ quan hoàn tất thủ tục phê duyệt dự án, trình báo cáo nghiên cứu khả thi vào tháng 8/2026. Hội đồng thẩm định Nhà nước thẩm định và trình Thủ tướng quyết định phê duyệt Báo cáo nghiên cứu khả thi dự án trong tháng 9/2026.
Dự án sẽ là tuyến ĐSTĐC trên trục Bắc - Nam với tổng chiều dài khoảng 1.541km, tốc độ thiết kế 350km/h, tải trọng 22,5 tấn/trục; 23 ga hành khách, 5 ga hàng hóa, bắt đầu từ ga Ngọc Hồi (Hà Nội) và kết thúc tại ga Thủ Thiêm (TP Hồ Chí Minh), đi qua 20 tỉnh thành. Công tác giải phóng mặt bằng tại 20 tỉnh thành dự án đi qua sẽ do các địa phương và EVN thực hiện, hoàn thành trước tháng 12/2026 để bàn giao mặt bằng cho nhà thầu thi công. Các bộ, ngành tổ chức lựa chọn nhà thầu, ký kết hợp đồng và bảo đảm các điều kiện để khởi công xây dựng trước ngày 31/12/2026. Bộ Xây dựng triển khai thi công, mua sắm, lắp đặt thiết bị, cơ bản hoàn thành dự án từ năm 2035.
Để đẩy nhanh tiến độ dự án, Chính phủ sẽ xây dựng, ban hành các nghị định để triển khai cơ chế, chính sách đặc thù đã được Quốc hội cho phép, bao gồm: Nghị định quy định về nội dung, yêu cầu về khảo sát, lập thiết kế kỹ thuật tổng thể (thiết kế FEED) thay thế cho thiết kế cơ sở trong báo cáo nghiên cứu khả thi dự án và các bước thiết kế triển khai sau thiết kế FEED. Cùng với đó, Chính phủ sẽ xây dựng nghị định quy định về tiêu chí lựa chọn tổ chức, DN Nhà nước được giao nhiệm vụ hoặc tổ chức, DN Việt Nam được đặt hàng cung cấp dịch vụ, hàng hóa công nghiệp đường sắt; Nghị định hướng dẫn thực hiện công tác phát triển khoa học, công nghệ đường sắt và quy định chi tiết về việc nghiên cứu, ứng dụng, nhận chuyển giao công nghệ đối với các dự án đường sắt.
Tại phiên họp của Ban Chỉ đạo các công trình trọng điểm, dự án quan trọng quốc gia lĩnh vực đường sắt. Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính nhấn mạnh, đường sắt có vai trò quan trọng trong vận tải hành khách và hàng hóa, tuy nhiên thời gian qua phát triển đường sắt ít được quan tâm, chưa tương xứng với sự phát triển của đất nước.
Có thể thấy, quyết tâm lớn của Chính phủ, Quốc hội trong phát triển tuyến ĐSTĐC Bắc - Nam, đây cũng là minh chứng sống động cho tầm nhìn chiến lược, bản lĩnh chính trị và khát vọng đổi mới mạnh mẽ của Việt Nam trong thế kỷ XXI. Trên từng ki - lô - mét đường ray bắc ngang đất nước, là tinh thần quyết tâm bứt phá, là niềm tin vào sự phát triển thịnh vượng, là cam kết vì một tương lai bền vững cho các thế hệ mai sau.
Hành lang Bắc - Nam chính là trục xương sống của đất nước khi chiếm tới 54% dân số đô thị, 72% cảng biển loại I - II, 67% khu kinh tế ven biển, khoảng 63% khu kinh tế, 40% khu công nghiệp, trên 51% GDP cả nước. Hành lang này còn kết nối 2 đô thị đặc biệt, 17 đô thị loại I quy mô dân số 500.000 dân.
Thành Luân
Nguồn KTĐT : https://kinhtedothi.vn/duong-sat-cao-toc-bac-nam-quyet-sach-chien-luoc-dong-luc-doi-moi.733072.html