Quốc hội thảo luận ở hội trường về chủ trương đầu tư dự án đường sắt tốc độ cao trên trục Bắc - Nam. (Ảnh: Cổng TTĐTQH)
Theo các Đại biểu Quốc hội, việc xây dựng đường sắt tốc độ cao Bắc Nam là xu thế phát triển đất nước, là bước chuẩn bị, đột phá chiến lược để nước ta bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.
Nêu ý kiến, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Văn hóa, Giáo dục của QH Tạ Văn Hạ (Đoàn ĐB Quảng Nam) bày tỏ: Về khả năng cân đối nguồn vốn, dự án đặt trong tổng thể mục tiêu đến năm 2030 Việt Nam trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại, có thu nhập trung bình cao. Với 6 năm còn lại thì khả năng cân đối nguồn vốn để vừa phát triển kinh tế - xã hội, các công trình dự án trọng điểm, các chương trình mục tiêu quốc gia là một bài toán khó.
Phó Chủ nhiệm Ủy ban Văn hóa, Giáo dục của QH Tạ Văn Hạ. (Ảnh: Cổng TTĐTQH)
ĐB nhấn mạnh cần có phương án triển khai, khai thác thực sự hiệu quả từ khâu lựa chọn công nghệ cho đến phân kỳ phù hợp. Đặc biệt, cần chú ý khâu tổ chức thực hiện để làm sao tránh đội vốn, bù lỗ sau này; không để đầu tư thì lớn mà khai thác không hiệu quả, phải bỏ tiền ra bù lỗ.
Dẫn thực tế một số dự án quan trọng quốc gia sau khi được Quốc hội thông qua đã phát sinh nhiều vấn đề dẫn đến phải xin điều chỉnh lại chủ trương, ĐB Nguyễn Ngọc Sơn, Ủy viên Thường trực Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường của Quốc hội đề nghị Chính phủ cần quan tâm, xem xét một số vấn đề trọng tâm để dự án đường sắt tốc độ cao Bắc - Nam mang tính khả thi, đáp ứng mong đợi của cử tri và Nhân dân cả nước.
Theo đó, các quy hoạch phải đảm bảo kết nối đồng bộ để việc gom và giải tỏa hàng hóa được thuận lợi, nhằm phát huy hiệu quả kết nối giữa các phương thức giao thông, giảm chi phí đi lại và chi phí logistics.
Về công nghệ, Chính phủ đã đề xuất công nghệ chạy trên ray, công nghệ đoàn tàu động lực phân tán với tàu khách, tàu hàng áp dụng công nghệ động lực tập trung, thông tin tín hiệu áp dụng như một số nước.
“Tuy nhiên, hiện chưa rõ công nghệ theo khung tiêu chuẩn nào, tỷ lệ nội địa hóa là bao nhiêu. Tôi đề nghị có định hướng lựa chọn công nghệ hiện đại nhưng phải đảm bảo tính phổ quát nhằm nâng cao tính cạnh tranh trong việc lựa chọn đối tác cung cấp sản phẩm và sẵn sàng chuyển giao công nghệ cho Việt Nam. Đề án phát triển công nghiệp cần xây dựng lộ trình và nguồn lực cụ thể để đảm bảo việc chuyển giao và tiếp nhận công nghệ phù hợp với tiến độ dự án”, ĐB Sơn cho biết.
Ngoài ra, để đảm bảo tiến độ dự án cơ bản hoàn thành toàn tuyến vào năm 2035 cần phải huy động tối đa nguồn lực trong và ngoài nước để triển khai dự án.
Đại biểu Nguyễn Ngọc Sơn. (Ảnh: Cổng TTĐTQH)
“Đây là dự án khó, mới, chưa có tiền lệ, vì vậy cần phải đặc biệt lưu ý đến công tác thuê tư vấn quốc tế có năng lực để hỗ trợ chủ đầu tư quản lý dự án, lựa chọn tư vấn thiết kế, tư vấn thẩm tra có năng lực thực sự để dự án đạt tiến độ nhanh nhất, chất lượng cao nhất. Đồng thời, tiếp tục rà soát và đề xuất các chính sách đặc thù đặc biệt để tháo gỡ khác khó khăn vướng mắc trong quá trình triển khai các bước tiếp theo”, ĐB kiến nghị.
ĐB Nguyễn Tâm Hùng (Đoàn Bà Rịa-Vũng Tàu) đề nghị Bộ Giao thông vận tải tham mưu cho Chính phủ về lựa chọn công nghệ và tiêu chuẩn kỹ thuật; xem xét việc kết hợp nhiều phương thức huy động vốn khác nhau. Bên cạnh đó, Dự án đi qua 20 tỉnh, TP, đòi hỏi giải phóng mặt bằng lớn với tổng diện tích đất sử dụng ước tính khoảng 10.827ha và tái định cư cho khoảng 120.836 người. Đây là thách thức không nhỏ.
Từ đó, theo ĐB, cần thực hiện chặt chẽ các chính sách bồi thường, hỗ trợ người dân tái định cư và ưu tiên hỗ trợ đào tạo nghề, tạo công ăn việc làm mới để người dân sớm ổn định cuộc sống. Đồng thời, cần có giải pháp bảo vệ môi trường hiệu quả, giảm thiểu tác động tiêu cực đến môi trường tự nhiên, hệ sinh thái và các nguồn tài nguyên nước dọc tuyến đường sắt.
ĐB Dương Khắc Mai (Đoàn Đắk Nông) đề nghị Chính phủ cung cấp thêm thông tin về khả năng thu xếp, cân đối đáp ứng nhu cầu vốn cho dự án để đánh giá khả năng chi trả của ngân sách nhà nước, sức chịu đựng của nền kinh tế. Theo ĐB, ngân sách nhà nước còn nhiều khoản phải chi, ngoài chi phát triển còn chi thường xuyên, chi hàng năm theo kế hoạch trung hạn, chi theo các chương trình, đề án.
Về thu hút đầu tư, ĐB đề nghị quan tâm thu hút đầu tư tư nhân trong nước. Điều này vừa để giúp doanh nghiệp có cơ hội phát triển lớn mạnh, vừa để tiếp nhận và chuyển giao công nghệ nước ngoài, nội địa hóa mức tối đa, giảm bớt phụ thuộc vào nước ngoài. Dự án thực hiện đầu tư công 100% nhưng không có nghĩa là Nhà nước thực hiện tất cả công việc, Nhà nước đặt hàng các nhà đầu tư tư nhân có năng lực trong những ngành nghề có liên quan. Ngoài ra nên thu hút các doanh nghiệp tư nhân đầu tư xây dựng nhà ga, các dịch vụ hỗ trợ khác vì họ làm rất tốt. Điều này đã thực hiện trong lĩnh vực hàng không, đường bộ, đường thủy.
Trong nguồn lực huy động đầu tư cho dự án, ĐB đề nghị phải tính đến việc huy động sức dân vì nguồn lực trong dân là rất lớn. Nếu phát hành trái phiếu với một lãi suất đủ hấp dẫn thì người dân sẵn sàng mua. Ngân sách chưa đủ thì đi vay nhưng vay trong dân thì tốt hơn vay nước ngoài vì lợi nhuận người dân sẽ hưởng. Điều quan trọng hơn cũng nhằm khơi dậy tinh thần tự hào dân tộc để đóng góp vào các công trình quốc gia.
Sơn Phan