Dòng vốn FDI lập kỷ lục 5 năm
Theo ADB, tăng trưởng GDP của Việt Nam trong nửa đầu năm 2025 đạt 7,5%, cao hơn đáng kể mức 6,4% cùng kỳ 2024 và cũng là mức tăng cao nhất của giai đoạn sáu tháng đầu năm kể từ năm 2010. Động lực tăng trưởng đến từ nhiều yếu tố như công nghiệp và xây dựng tăng mạnh 8,3%, trong đó sản xuất chế biến chế tạo đạt tới 10,1% nhờ gia tăng đơn hàng trước thời điểm Mỹ áp thuế đối ứng; lĩnh vực xây dựng hưởng lợi từ tiến độ giải ngân vốn đầu tư công, đạt mức tăng 9,6%.
Dịch vụ cũng khởi sắc, tăng 8,1% nhờ sự phục hồi của du lịch, tài chính và thương mại. Nông nghiệp tăng 3,8%, cho thấy khả năng chống chịu tốt trước biến động thị trường, đồng thời được hỗ trợ bởi sự ổn định giá cả. Từ phía cầu, tiêu dùng cuối cùng tăng 8% nhờ chính sách tài khóa mở rộng và lãi suất duy trì ở mức thấp, trong khi tích lũy vốn gộp cũng tăng mạnh nhờ giải ngân đầu tư công đạt gần một nửa kế hoạch cả năm.
Theo Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB), dòng vốn FDI vào Việt Nam vẫn duy trì mạnh mẽ, đóng góp quan trọng cho công nghiệp chế biến, chế tạo.
Trong tám tháng đầu năm, kim ngạch xuất khẩu đạt khoảng 306 tỉ USD, tăng 14,8% so với cùng kỳ 2024. Đáng chú ý, xuất khẩu sang Mỹ tăng tới 26,4%, Hàn Quốc tăng 11,8%, Trung Quốc tăng 9,2% và Nhật Bản tăng 9%. Hàng chế biến chế tạo tiếp tục chiếm ưu thế, chiếm gần 89% tổng kim ngạch xuất khẩu, trong đó khu vực FDI đóng góp tới 75%.
Ở chiều ngược lại, nhập khẩu tăng 17,9% lên khoảng 292 tỉ USD, chủ yếu là nhóm hàng điện tử, máy tính và linh kiện. Do nhập khẩu tăng nhanh hơn, thặng dư thương mại giảm còn 14 tỉ USD, thấp hơn đáng kể so với mức 18,8 tỉ USD cùng kỳ 2024. Tuy vậy, cán cân vãng lai vẫn duy trì thặng dư nhờ dòng kiều hối ổn định, đạt 5,4% GDP trong nửa đầu năm.
Số liệu từ Bộ Kế hoạch và Đầu tư cho thấy, vốn FDI giải ngân trong tám tháng đạt 15,4 tỉ USD - mức cao nhất trong giai đoạn tương ứng của năm năm qua. Trong đó, lĩnh vực chế biến chế tạo chiếm áp đảo với 81%, bất động sản công nghiệp chiếm 8%. Vốn FDI đăng ký mới đạt 26,1 tỉ USD, tăng 27,3% so với năm trước. Tuy nhiên, có tới 58% là điều chỉnh vốn và mua cổ phần, trong khi vốn đăng ký mới giảm 8,1%. Diễn biến này phản ánh tâm lý thận trọng của nhà đầu tư trong bối cảnh thương mại toàn cầu biến động, đồng thời cũng cho thấy Việt Nam vẫn là điểm đến hấp dẫn khi các tập đoàn quốc tế tiếp tục mở rộng quy mô dự án hiện hữu.
Trong tám tháng đầu năm, lạm phát bình quân đạt 3,3%, thấp hơn mức 4,0% của năm 2024 và nằm trong mục tiêu điều hành. Giá lương thực ổn định, chi phí vận tải giảm trong khi giá điện và vật liệu xây dựng có xu hướng tăng. Ngân hàng Nhà nước tiếp tục giữ nguyên lãi suất điều hành ở mức 4,5% từ năm 2023 đến nay, đồng thời bơm thanh khoản để hỗ trợ tín dụng. Tính đến cuối tháng 8, tín dụng tăng 11,8% so với cuối 2024 và 19,9% so với cùng kỳ, cho thấy dòng vốn vào nền kinh tế vẫn duy trì dồi dào.
Thị trường trái phiếu doanh nghiệp khởi sắc với tổng giá trị phát hành khoảng 374 nghìn tỉ đồng, tăng 43% so với cùng kỳ năm ngoái. Các ngân hàng và tổ chức tín dụng chiếm tỷ trọng lớn, song doanh nghiệp bất động sản cũng tận dụng cơ hội nhờ cải cách pháp lý, đẩy mạnh phát hành, tăng 30% so với cùng kỳ.
Ngân sách nhà nước đạt kết quả khả quan khi tổng thu ước đạt 1.740 nghìn tỉ đồng, tăng 28,5%; tổng chi tăng 31,5%, trong đó chi đầu tư phát triển tăng gần 50%. Thặng dư ngân sách nửa đầu năm đạt 3,9% GDP, phản ánh sự chủ động trong thực thi chính sách tài chính.
Triển vọng tăng trưởng 2025-2026
ADB dự báo tăng trưởng kinh tế Việt Nam năm 2025 đạt 6,7% và năm 2026 là 6,0%. Sản lượng công nghiệp dự kiến tăng 7,7% trong năm 2025, nhưng có thể gặp khó khăn trong nửa cuối năm do thuế quan của Mỹ. Ngành xây dựng được kỳ vọng tiếp tục duy trì đà tăng nhờ giải ngân đầu tư công và triển khai các dự án hạ tầng lớn.
Dịch vụ dự báo tăng trưởng 7,4%, được hỗ trợ bởi du lịch, tài chính, bán lẻ và thương mại điện tử. Trong tám tháng, Việt Nam đã đón gần 14 triệu lượt khách quốc tế, tăng hơn 21% so với cùng kỳ. Nông nghiệp được kỳ vọng đạt mức tăng 3,4%, dù vẫn đối mặt với rủi ro khí hậu và thị trường hàng hóa toàn cầu.
Theo đánh giá của các chuyên gia ADB, so với nhiều nền kinh tế trong khu vực, Việt Nam nổi bật nhờ tốc độ tăng trưởng cao đi kèm với khả năng kiểm soát lạm phát hiệu quả.
Tiêu dùng nội địa duy trì là điểm sáng nhờ chính sách tài khóa hỗ trợ, doanh số bán lẻ tám tháng đầu năm tăng 9,4%. Các biện pháp cắt giảm thuế, thúc đẩy thương mại điện tử và mạng lưới bán lẻ mở rộng sẽ tiếp tục củng cố nhu cầu trong nước.
Dù triển vọng tích cực, báo cáo của ADB cảnh báo nhiều rủi ro. Các mức thuế đối ứng của Mỹ 20% đối với hàng nhập khẩu và 40% với hàng trung chuyển sẽ tác động đến thương mại và đầu tư trong nửa cuối năm. Xuất khẩu sang Mỹ có thể chậm lại đáng kể sau giai đoạn “dồn toa” đầu năm, buộc doanh nghiệp phải tái cơ cấu chuỗi cung ứng.
Ngoài ra, rủi ro từ biến động tài chính toàn cầu, sự suy yếu của kinh tế Trung Quốc và căng thẳng địa chính trị kéo dài cũng có thể tác động mạnh đến triển vọng của Việt Nam và khu vực. Ông Albert Park, Chuyên gia kinh tế trưởng của ADB, nhận định: “Thuế quan của Mỹ hiện ở mức cao kỷ lục và bất định thương mại toàn cầu chưa từng có. Các nền kinh tế cần duy trì quản lý vĩ mô lành mạnh, mở cửa và hội nhập sâu rộng hơn để ứng phó”.
Việt Nam trong bức tranh khu vực
So với nhiều nền kinh tế trong khu vực, Việt Nam nổi bật với tốc độ tăng trưởng cao và lạm phát được kiểm soát. ADB giữ nguyên dự báo tăng trưởng của Trung Quốc ở mức 4,7% năm 2025, Ấn Độ ở mức 6,5%, trong khi nhiều nền kinh tế Đông Nam Á khác bị hạ dự báo do nhu cầu toàn cầu yếu. Tăng trưởng trung bình của ASEAN được dự báo ở mức 4,3% cho cả hai năm 2025-2026.
Chuyên gia kinh tế Nguyễn Bá Hùng nhận định, triển vọng của khu vực còn tiềm ẩn nhiều bất ổn: “Nguy cơ leo thang thuế quan, biến động thị trường tài chính và căng thẳng địa chính trị có thể làm suy giảm niềm tin và ảnh hưởng tới phục hồi kinh tế. Đặc biệt, sự suy thoái kéo dài của bất động sản Trung Quốc là mối quan ngại lớn, có thể lan tỏa tiêu cực tới nhiều nền kinh tế trong khu vực”.
Theo ông Shantanu Chakraborty, Giám đốc quốc gia ADB tại Việt Nam, để duy trì đà tăng trưởng, Việt Nam cần tăng cường phối hợp chính sách tài khóa - tiền tệ, đồng thời đẩy nhanh cải cách cơ cấu: “Những cải cách toàn diện về pháp lý, hiện đại hóa hệ thống thuế, thúc đẩy năng lực cạnh tranh của khu vực tư nhân, tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước và chuyển đổi số sẽ là chìa khóa để xây dựng mô hình tăng trưởng cân bằng, bền vững hơn”.
Trong dài hạn, dư địa tài khóa của Việt Nam vẫn còn lớn khi nợ công dưới 34% GDP, thấp hơn nhiều so với ngưỡng trần 60%. Đây sẽ là lợi thế để Chính phủ tiếp tục có các gói kích thích kinh tế, song điều quan trọng là cần cải thiện năng lực triển khai dự án và quản lý đầu tư công để tận dụng hiệu quả nguồn lực.
Đình Khương