Ngày 30/10, tại tọa đàm “Tiết kiệm - Sức mạnh nội sinh trong kỷ nguyên số”, Phó Thống đốc Ngân hàng Nhà nước (NHNN) Phạm Thanh Hà cho biết đến nay, tiền gửi dân cư tại các tổ chức tín dụng đạt khoảng 8 triệu tỷ đồng, tăng gần 13% so với cùng kỳ năm trước. “Nguồn lực tài chính dồi dào này chính là minh chứng cho sức mạnh nội sinh của nền kinh tế Việt Nam, một nền kinh tế vẫn duy trì đà tăng trưởng cao, ổn định giữa bối cảnh thế giới biến động”, Phó Thống đốc nhấn mạnh.
Ông cho rằng, trong giai đoạn hiện nay, khi kinh tế toàn cầu đối mặt với nhiều thách thức, cạnh tranh nguồn lực ngày càng gay gắt và chi phí vốn quốc tế gia tăng, việc phát huy nội lực, tiết kiệm và sử dụng hiệu quả nguồn lực trong nước mang ý nghĩa chiến lược đặc biệt quan trọng.
Phó Thống đốc Phạm Thanh Hà cho biết, trong hơn 7 thập kỷ qua, ngành ngân hàng luôn là “huyết mạch” của nền kinh tế, đóng vai trò chuyển hóa tiết kiệm thành đầu tư, niềm tin thành thịnh vượng. Từ những khoản tiết kiệm nhỏ của người dân, hệ thống ngân hàng đã tạo nên dòng vốn lớn chảy vào các lĩnh vực trọng yếu như sản xuất, hạ tầng, nông nghiệp, giáo dục, y tế, góp phần kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô và thúc đẩy tăng trưởng.
Phó Thống đốc Phạm Thanh Hà cho biết đến nay, tiền gửi dân cư tại các tổ chức tín dụng đạt khoảng 8 triệu tỷ đồng, tăng gần 13% so với cùng kỳ năm trước.
Bên cạnh đó, hiện nay, hơn 95% giao dịch của người dân được thực hiện qua kênh số; thanh toán không dùng tiền mặt tăng bình quân hơn 45%/năm, giúp tiết kiệm cho xã hội hàng nghìn tỷ đồng chi phí vận hành mỗi năm. Các ngân hàng cũng liên tục phát triển sản phẩm tiết kiệm tiện ích như tiết kiệm trực tuyến, tiết kiệm linh hoạt, giúp người dân dễ dàng gửi tiền an toàn, minh bạch, mọi lúc mọi nơi.
Ở góc độ tổ chức tín dụng, việc đa dạng hóa sản phẩm tiết kiệm trên nền tảng số giúp gia tăng tỷ lệ tiền gửi không kỳ hạn (CASA), qua đó giảm chi phí vốn, nâng cao hiệu quả hoạt động và tạo thêm dư địa giảm lãi suất hỗ trợ doanh nghiệp. Đây cũng chính là cách ngành ngân hàng lan tỏa tinh thần tiết kiệm vào thực tiễn, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế số và tài chính toàn diện.
PGS, TS. Chu Khánh Lân, Phó Vụ trưởng Vụ Dự báo thống kê - Ổn định tiền tệ, (NHNN), khẳng định tiết kiệm có vai trò rất quan trọng, hành động đem lại sự phát triển của mỗi cá nhân, gia đình và đất nước, đồng thời còn giúp cho một quốc gia có khả năng chống chịu, hội nhập một cách bền vững.
Trên thế giới, một số quốc gia vượt qua được mức thu nhập trung bình như Hàn Quốc, Singapore, Trung Quốc có hệ số sử dụng vốn (ICOR) rất thấp chỉ từ 3 - 3,5 nhưng đạt được tốc độ tăng trưởng kinh tế cao chỉ trong một giai đoạn đến 15-16 năm nhờ vào việc tiết kiệm. Tuy nhiên, họ phải đầu tư rất hiệu quả thì hệ số ICOR mới thấp. Ngược lại, một số quốc gia không vượt qua được bẫy thu nhập trung bình như Thái Lan và Malaysia thì hệ số ICOR cao, số năm có tốc độ tăng trưởng cao lại không nhiều.
Tại Việt Nam, 30 năm trở lại đây, tốc độ tăng trưởng GDP bình quân chỉ khoảng 6,5% nhưng tỷ lệ tiết kiệm GDP ở mức 29%. Tuy nhiên, nếu so sánh với các quốc gia trong khu vực thì tỷ lệ tiết kiệm tại Việt Nam vẫn còn thấp.
Chiến lược tài chính toàn diện quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030 đặt mục tiêu có ít nhất 25% - 30% người trưởng thành gửi tiết kiệm tại tổ chức tín dụng.
Số liệu khảo sát của Cục Thống kê (Bộ Tài chính) cho thấy, tính đến quý III/2024 có 68% người trưởng thành có tiết kiệm trong 12 tháng. Về mục đích tiết kiệm: 44% cho tuổi già (tăng theo độ tuổi; cao hơn ở thành thị); 31% cho giáo dục (tăng theo trình độ học vấn và thu nhập; cao hơn ở thành thị); chỉ có 13% cho đầu tư hoặc kinh doanh để đem lại hiệu quả, tức là còn khá thấp.
Đối với hình thức tiết kiệm, khảo sát cho biết 47% giữ tại nhà (tăng theo thu nhập; cao hơn ở nông thôn); 33% gửi ngân hàng (tăng theo trình độ học vấn và thu nhập; cao hơn ở thành thị); 6% tiết kiệm không chính thức (cao hơn ở nông thôn); 0,4% đầu tư chứng khoán; 0,6% đầu tư vào quỹ hưu trí. Các con số trên cho thấy, tiết kiệm chủ yếu vào hệ thống ngân hàng và tự thân, còn đầu tư vào thị trường tài chính còn thấp.
Để thúc đẩy tiết kiệm, PGS, TS. Chu Khánh Lân cho rằng, những nền tảng số có thể giúp người dân nâng cao hiểu biết về tiết kiệm nói chung và các sản phẩm ngân hàng. Qua đó hiện thực hóa các mục tiêu trong thúc đẩy tài chính toàn diện, phát triển bao trùm, công nghệ và dữ liệu cũng có thể góp phần xác định các đối tượng cần được giáo dục, nâng cao hiểu biết về tài chính, đặc biệt là những ai yếu thế, không có điều kiện tiếp cận các sản phẩm dịch vụ ngân hàng…
Dưới góc độ kinh nghiệm quốc tế, ông Christian Grajek, Trưởng điều phối khu vực châu Á, Quỹ Hợp tác quốc tế các Ngân hàng Tiết kiệm Đức (DSIK) cho rằng, để xây dựng một hệ sinh thái tài chính bền vững, Chính phủ, ngành tài chính và các tổ chức xã hội cần phối hợp chặt chẽ. Nhà nước cần tạo khung chính sách ổn định, bảo vệ người gửi tiền và khuyến khích các mô hình ngân hàng phục vụ cộng đồng. Đồng thời phát triển sản phẩm tiết kiệm phù hợp với từng nhóm đối tượng và nhu cầu.
Song song với đó, ngành giáo dục cũng cần xem giáo dục tài chính như một kỹ năng sống thiết yếu, giúp hình thành tư duy tiết kiệm hiện đại và toàn diện cho thế hệ tương lai. Các tổ chức quần chúng cần vận động và huy động từ cơ sở, mở rộng dịch vụ tài chính vi mô tới vùng sâu vùng xa và nhóm yếu thế. Ngoài ra, các tổ chức phát triển cần chia sẻ kinh nghiệm quốc tế và thực tiễn tốt về vấn đề này, tư vấn về khung pháp lý và quy định, đồng thời hỗ trợ phát triển tổ chức ngân hàng, tổ chức tài chính vi mô, phát triển sản phẩm tiết kiệm và giáo dục tài chính.
Thanh Hoa