Suốt nhiều năm qua, Philippines và Indonesia là hai thị trường “trụ cột” của xuất khẩu gạo Việt Nam, chiếm gần một nửa tổng lượng xuất khẩu. Nhưng vừa qua, cả hai thị trường này đồng loạt thay đổi chính sách, khiến ngành gạo Việt Nam chao đảo.
Từ đầu tháng 9, Philippines, khách hàng lớn nhất của gạo Việt ra quyết định tạm ngừng nhập khẩu 60 ngày, và đang xem xét kéo dài đến hết năm. Theo số liệu của Cục Hải quan, trong tháng 9, lượng gạo Việt xuất sang Philippines giảm 93,3% về khối lượng và 92,6% về giá trị so với tháng 8. Cùng thời điểm, Indonesia - thị trường lớn thứ hai của gạo Việt - cũng siết hạn ngạch nhập khẩu khiến nhiều hợp đồng bị hoãn hoặc hủy.
Tổng lượng gạo xuất khẩu tháng 9 chỉ đạt 466.800 tấn, trị giá 232,38 triệu USD, giảm gần 47% so với tháng trước. Hàng loạt doanh nghiệp bị “kẹt hàng” tại cảng, với ước tính khoảng 500.000 tấn chưa thể giao.
Ông Nguyễn Văn Đôn - Giám đốc Công ty TNHH Việt Hưng - cho biết, việc Philippines ngừng nhập khiến giá gạo nội địa hạ nhanh. Hàng đã mua, hợp đồng đã ký nhưng đối tác xin hoãn, khiến vốn bị kẹt, chi phí kho và vận tải đội lên.
Tình cảnh khó càng thêm căng khi thủ tục hoàn thuế VAT kéo dài, khiến dòng tiền doanh nghiệp bị “đóng băng”.
Trước việc 2 thị trường lớn giảm nhập khẩu, đã khiến giá gạo xuất khẩu của Việt Nam giảm đáng kể. Hiệp hội Lương thực Việt Nam (VFA) liên tục kêu gọi doanh nghiệp giữ bình tĩnh, không phá giá và chủ động tìm hướng đi mới.
Nhiều doanh nghiệp xuất khẩu gạo tìm hướng chuyển thị trường
Ông Phan Văn Có - Giám đốc Marketing Công ty Vrice chia sẻ, trước bối cảnh khó khăn của các thị trường truyền thống, doanh nghiệp đang đẩy mạnh sang châu Phi dù chi phí tàu biển cao và thanh toán phức tạp hơn, nhưng rủi ro chính sách thấp hơn.
Tuy nhiên, theo ông Có, không phải ai cũng dễ “đi xa”. Thị trường châu Phi đòi hỏi hợp đồng G2G (chính phủ – chính phủ), năng lực vốn lớn, kinh nghiệm pháp lý và mạng lưới logistics mạnh. Đây là sân chơi của những doanh nghiệp có tầm nhìn dài hạn, sẵn sàng đầu tư bài bản thay vì đánh nhanh, rút gọn như trước.
Song song với dịch chuyển thị trường, nhiều doanh nghiệp quay sang tập trung phân khúc cao cấp – gạo thơm, gạo đặc sản, gạo hữu cơ. Các giống ST24, ST25, OM18 hay Jasmine đang được đẩy mạnh sang Nhật, EU, Hàn Quốc những thị trường tuy nhỏ nhưng giá trị cao và ổn định.
“Chúng ta phải chuyển từ ‘gạo nhiều’ sang ‘gạo tốt’. Gạo cao cấp đòi hỏi đầu tư kỹ thuật và truy xuất nguồn gốc, nhưng khi đã vào được hệ thống siêu thị quốc tế thì gần như không còn bị ép giá,” ông Có nói thêm.
Thống kê của Hiệp hội Lương thực Việt Nam (VFA) cho thấy, xuất khẩu gạo sang thị trường châu Phi trong thời gian qua tăng trưởng tới 2 hoặc 3 con số. Chẳng hạn, trong 8 tháng năm nay, xuất khẩu gạo sang Ghana đạt 662 nghìn tấn, trị giá 373 triệu USD, tăng 95% về lượng và tăng 59% về kim ngạch so với cùng kỳ 2024, trở thành thị trường nhập khẩu gạo lớn nhất của Việt Nam.
Cũng trong thời gian trên, xuất khẩu gạo sang Bờ Biển Ngà đạt 754 nghìn tấn, trị giá 349 triệu USD, tăng 156% về lượng và tăng 96% về kim ngạch... Các thị trường như Nigeria, Senegal cũng đang mở rộng cửa.
Ông Đỗ Hà Nam - Chủ tịch VFA - cho biết, hiện chưa có văn bản chính thức kéo dài lệnh cấm từ phía Philippines. Nhưng đây là lời cảnh báo rõ ràng: doanh nghiệp Việt không thể tiếp tục phụ thuộc vào một vài thị trường lớn.”
Ông Nam cũng kiến nghị Bộ Tài chính cần thuế nhanh, nới tín dụng cho các đơn vị đang “ôm hàng chờ giá”; mở rộng xúc tiến thương mại qua kênh ngoại giao, đặc biệt tại châu Phi và Trung Đông, đồng thời cơ quan chức năng cần làm việc với Philippines cho phép thông quan những lô hàng đã đặt cọc trước lệnh cấm.
“Khó khăn lần này là phép thử thực sự cho ngành gạo Việt. Chúng ta không thể cứ trông chờ vào may rủi chính sách của nước khác. Đây là lúc phải chủ động xây dựng sức mạnh từ bên trong từ chất lượng hạt gạo, chuỗi sản xuất, đến thương hiệu quốc gia,” ông Nam nhấn mạnh.
Xuân Phong