Gặp người cuối cùng giữ tục nặn hình nhân giữa đảo gió Lý Sơn

Gặp người cuối cùng giữ tục nặn hình nhân giữa đảo gió Lý Sơn
2 giờ trướcBài gốc
Dấu tích binh phu Hoàng Sa
Trong buổi chiều đầy nắng và gió, theo lời giới thiệu của người dân địa phương, chúng tôi tìm đến nhà ông Võ Văn Nhành (57 tuổi, trú tại thôn Đông An Vĩnh, đặc khu Lý Sơn, tỉnh Quảng Ngãi). Cái vị mặn mòi của biển hình như đã dính chặt trên làn da của người đàn ông này.
Khi nghe hỏi về tập tục thiêng liêng của người dân biển đảo, đôi mắt tinh anh của ông Nhành sáng rực nhưng lại có chút đượm buồn. Lịch sử như một cuốn phim chiếu chậm, từ từ trải dài theo dòng chảy…
Đảo Lý Sơn (đặc khu Lý Sơn) có hàng trăm ngôi mộ gió của những ngư dân đã mất tích trên biển. Ảnh: Nguyễn Dương.
Ông Nhành kể, tục nặn hình nhân thế mạng bắt nguồn từ thời các binh phu Hoàng Sa hơn 300 năm trước, khi họ ra khơi cắm mốc, dựng bia chủ quyền trên những hòn đảo xa xôi của Tổ quốc. Những người lính ra đi trong chuyến hải trình định mệnh ấy, nhiều người vĩnh viễn không trở về.
Theo sử sách và gia phả các tộc họ trên đảo, vào đầu thế kỷ XVII, hằng năm, Chúa Nguyễn lệnh cho mỗi tộc họ (13 tộc) tuyển chọn 70 dân đinh khỏe mạnh, giỏi thao lược, lập thành Hải đội Hoàng Sa kiêm quản Bắc Hải. Họ ra khơi bằng những chiếc ghe bầu thô sơ, mang theo 6 tháng lương thực, một đôi chiếu, bảy nẹp tre, sợi mây buộc dài, cùng thẻ bài ghi rõ danh tính, quê quán. Chuyến đi đầy hiểm nguy. Nhiều người chưa kịp tới Hoàng Sa đã bỏ mạng giữa biển. Người đến nơi thì chết vì đói, vì khát.
Tương truyền, Chúa Nguyễn thường nằm mộng thấy những binh phu năm xưa trở về, oán than rằng họ chết mất xác, không biết đường về với đất mẹ. Sau nhiều cuộc bàn bạc, các quan trong triều nghĩ ra cách nặn hình nhân bằng đất sét, làm lễ chiêu hồn về nhập cốt rồi chôn cất như người thật.
Ban đầu, hình nhân được tạc bằng gỗ, đá, song lễ không thành. Chỉ đến khi dùng đất sét từ núi Giếng Tiền (miệng núi lửa), các lễ cúng mới linh ứng. Kể từ đó, tục nặn hình nhân và đắp mộ gió trở thành một phần không thể thiếu trong đời sống tâm linh của người dân đảo.
Ông Võ Văn Nhành - nghệ nhân cuối cùng chuyên nặn hình nhân cho những ngư dân mất tích. Ảnh: Nguyễn Dương.
Ngôi mộ gió đầu tiên trên đảo là mộ của Cai đội Phạm Quang Ảnh cùng 24 lính Hoàng Sa mất tích trong một chuyến ra khơi. Vua Gia Long khi hay tin đã thân chinh ra Lý Sơn, lập đàn chiêu hồn cho các tử sĩ. Đoàn tùy tùng của vua có một thầy phong thủy nổi tiếng. Thầy sai dân làng lên núi Giếng Tiền lấy đất sét nặn thành 25 hình người, rồi làm lễ nhập cốt. Từ đó, người dân tin rằng linh hồn người chết có thể trở về an nghỉ cùng đất mẹ.
“Cũng từ đó, cái nghề nặn hình nhân cũng bắt đầu. Nhưng làm nghề này, chỉ mong mình thất nghiệp. Có ai vui khi phải nặn những hình hài của bà con đã khuất trên biển”, ông Nhành thở dài, ánh mắt lướt ra phía biển, nơi có hàng trăm ngôi mộ gió nằm san sát.
Người giữ nghề giữa đảo gió
Không nơi nào có nhiều mộ gió như ở Lý Sơn. Dọc khắp đảo, trong những ruộng hành, ruộng tỏi, rải rác đâu đâu cũng có những ngôi mộ nhỏ, khum khum như gò cát, không có hài cốt bên trong. Chúng là nơi an nghỉ của những người đã mất ngoài khơi, là chỗ để họ "trở về”.
Mỗi khi có người thân gặp nạn ngoài khơi mà không tìm thấy xác, gia đình họ lại tìm đến ông nhờ nặn một “hình nhân thế mạng” bằng đất sét, thực hiện nghi lễ chiêu hồn, nhập cốt rồi mang đi chôn như một người đã khuất. Người dân tin rằng, chỉ khi làm vậy, linh hồn người mất mới thôi phiêu bạt giữa biển cả, tìm được đường về đoàn tụ với gia đình và tổ tiên.
Hàng năm, chính quyền đặc khu Lý Sơn đều tổ chức lễ Khao lề thế linh Hoàng Sa để tưởng nhớ những tiền hiền đi trước. Ảnh: Nguyễn Dương.
Ông Nhành là người thế hệ thứ 6 trong dòng họ Võ – còn theo nghề nặn hình nhân thế mạng. Không chỉ làm hình nhân cho các ngư dân gặp nạn, ông còn tham gia lễ Khao lề thế lính Hoàng Sa hằng năm, một nghi thức trang trọng tưởng nhớ những binh phu năm xưa.
“Người sống cần một mái nhà, người chết cũng cần một chỗ để về. Nếu không làm hình nhân, linh hồn họ sẽ mãi cô độc ngoài biển khơi”, ông Nhành chậm rãi nói.
Ông kể, nghề làm hình nhân như một cơ duyên. Thuở nhỏ, ông chỉ mơ làm giáo viên. Nhưng năm 19 tuổi, khi cha ông, cụ Võ Văn Toại (đã mất), một pháp sư có tiếng trên đảo đi vắng, có người đến nhờ làm hình nhân cho thân nhân mất tích. Đợi mãi không thấy cha về nên tôi đành phải nhận lời. Không ngờ làm được. Từ đó đến nay, đã gần 38 năm ông gắn bó với nghề này.
Hiện nay, ông là người duy nhất ở trên đảo Lý Sơn còn theo nghề này bởi không phải ai muốn cũng có thể làm được. Nghề này rất “kén” người. Người làm hình nhân được gọi là pháp sư hay thầy cúng và phải hội đủ ba yếu tố gọi là 'tam thiên": Nhứt sắc (khuôn mặt), chí oai (oai phong) và thiên tướng (tướng mạo).
Hình ảnh lễ Khao lề thế lính Hoàng Sa hằng năm, một nghi thức trang trọng tưởng nhớ những binh phu năm xưa. Ảnh: Nguyễn Dương.
“Nếu không có 'tam thiên' thì sẽ không làm được hình nhân thế mạng. Ngoài ra, người pháp sư phải am tường giới luật khi hành lễ. Nếu không, dù nặn xong hình nhân, cũng không hiệu nghiệm. Đó là lý do vì sao nhiều người học nghề rồi đều bỏ cuộc”, ông nói.
Để nặn một hình nhân, tất cả phải tuân thủ một quy trình rất nghiêm ngặt. Đất sét phải lấy ở núi Giếng Tiền (miệng núi lửa cổ của đảo); dâu tằm phải là cây “cô đơn”, không nhánh; than cây sầu đâu, bông gòn, chỉ tơ… một hình nhân khi hoàn chỉnh dài khoảng 1 mét, nặng hơn 30 kg.
Giữ lửa trong từng nắm đất
Giữa thời đại công nghệ, khi nhiều giá trị tâm linh dễ bị lãng quên, nghề nặn hình nhân thế mạng của ông Nhành vẫn tồn tại, lặng lẽ mà thiêng liêng. Đối với người dân Lý Sơn, ông chính là người giữ lửa, kết nối quá khứ bi hùng với hiện tại trên đảo.
Người dân tin rằng, chỉ khi có được hình nhân thế mạng thì linh hồn người mất mới thôi phiêu bạt giữa biển cả, tìm được đường về đoàn tụ với gia đình và tổ tiên. Ảnh: Nguyễn Dương.
Suốt 38 năm làm nghề, ông Võ Văn Nhành đã nặn không biết bao nhiêu hình nhân. Mỗi lần làm xong, ông lại thầm mong đó là lần cuối.
Trước câu hỏi: Nếu không ai tiếp nối nghề thì sau này, ai sẽ làm thay ông? Nghề biển, không thể nói trước điều gì, luôn tiền ẩn rủi ro?”
Ông Nhành chững lại với tiếng thở dài: “Thì biết sao giờ? Thứ nhất, vốn dĩ là nghề nó khắt khe. Thứ hai, là cũng ít người muốn đi theo nghề này. Có ai muốn nặn cả chục nhân mạng cho người dân mình đâu?”.
“Nhưng đây là nét văn hóa riêng của dân đảo, rồi cũng phải có người tiếp tục chứ? Nếu dừng thì ai sẽ thay ông gọi họ ở giữa trùng khơi về? Cũng đành chờ thời gian thôi chứ chẳng biết làm sao cả”, ông nói.
Trên đảo, gió quanh năm. Giữa những ruộng tỏi trắng ngút ngàn, hàng trăm ngôi mộ gió vẫn lặng lẽ xếp hàng, chứng nhân cho bao thế hệ con dân đã gửi thân mình nơi trùng khơi. Dưới mỗi nấm mộ ấy là câu chuyện bi hùng của bao đời con dân Hoàng Sa. Và giữa không gian mặn mòi của gió biển Lý Sơn, nghệ nhân già Võ Văn Nhành vẫn lặng lẽ, cần mẫn nắn từng khối đất sét, tạo từng dáng hình để những linh hồn binh phu Hoàng Sa có thể trở về... nhà.
Ngôi mộ gió đầu tiên trên đảo là mộ của Cai đội Phạm Quang Ảnh cùng 24 lính Hoàng Sa mất tích trong một chuyến ra khơi. Vua Gia Long khi hay tin đã thân chinh ra Lý Sơn, lập đàn chiêu hồn cho các tử sĩ.Theo sử sách và gia phả các tộc họ trên đảo Lý Sơn, vào đầu thế kỷ XVII, hằng năm, Chúa Nguyễn lệnh cho mỗi tộc họ trên đảo (13 tộc) tuyển chọn 70 dân đinh khỏe mạnh, cường tráng, giỏi tài thao lược thành lập Hải đội Hoàng Sa kiêm quản Bắc Hải để ra khơi làm nhiệm vụ cắm mốc, đo đạc thủy trình, tìm kiếm sản vật và dựng bia chủ quyền lãnh thổ của Việt Nam trên vùng biển Hoàng Sa - Trường Sa.
Nguyễn Dương
Nguồn Công Thương : https://congthuong.vn/gap-nguoi-cuoi-cung-giu-tuc-nan-hinh-nhan-giua-dao-gio-ly-son-424068.html