Cụ Hoàng Văn Tứ nguyên là cán bộ chủ chốt xã có quá trình hoạt động cách mạng khá đặc biệt: 2 lần được kết nạp vào Đảng, 3 lần được bầu làm Chủ tịch UBND xã, làm Bí thư Đảng ủy xã, được điều lên huyện công tác rồi lại trở về quê làm Chủ nhiệm Hợp tác xã cho đến lúc nghỉ hưu.
Ký ức một thời hào hùng
Cụ Hoàng Văn Tứ.
Ở tuổi 96, cụ Hoàng Văn Tứ đã được nhận Huy hiệu 65 năm tuổi Đảng, nghỉ hưu được 40 năm, vóc dáng cao lớn và rất minh mẫn. Trong câu chuyện, hỏi về quê hương Mỹ Thái thời kỳ kháng chiến chống Pháp, mắt cụ sáng lên. Cụ chậm rãi kể về những năm tháng máu lửa và hào hùng của quê hương.
Cụ Hoàng Văn Tứ sinh năm 1928, lớn lên tại làng Chi Lễ (tổng Tân Thái, Phủ Lạng Giang, nay là xã Mỹ Thái). Kháng chiến chống Pháp nổ ra, chàng trai trẻ Hoàng Văn Tứ tham gia đội du kích của làng, được huấn luyện quân sự, học tập chính trị. Ngày 10 tháng Giêng năm 1947, quân Pháp càn vào tổng Tân Thái và làng Chi Lễ. Chúng chỉ xem xét không phá đốt phá. Du kích ta để cho chúng rút ra an toàn. Khi địch tổ chức nhiều trận càn liên tiếp và quy mô lớn hơn, buộc ta phải có những đối sách để giữ đất, giữ làng.
Ngày 25/3/1948, Chủ tịch nước có Sắc lệnh số 148 về giải thể đơn vị hành chính "Châu, phủ, quận, tổng" để thành lập tỉnh, huyện và xã. Tổng Tân Thái giải thể và thành lập xã Mỹ Thái (cũ). Khi quân Pháp chiếm Phủ Lạng Thương (nay là TP Bắc Giang), chàng trai Hoàng Văn Tứ được cử làm Trung đội trưởng du kích làng Chi Lễ và được kết nạp vào Đảng.
Ngày 13/7/1949, quân Pháp từ Hải Dương, Quảng Yên mở trận càn rất lớn lên Bắc Giang. Chúng đánh chiếm Phủ Lạng Thương, huyện Việt Yên, Yên Dũng và một phần huyện Lạng Giang. Chúng xây dựng hàng loạt đồn bốt ở Kế (Dĩnh Kế), đồi Con Lợn (Tân Dĩnh), bốt Cạm (Thái Đào), Quất Lâm (Đại Lâm), Cồ Lồ, Đồi Ngô (Lục Nam) và lập ra "Vành đai trắng" từ làng Đức Mại (tổng Mỹ Thái), qua tổng Phi Mô (nay là xã Tân Dĩnh) xuống Thái Đào kéo dài lên Phủ Lục Ngạn (nay là huyện Lục Ngạn).
Những nơi bị chiếm đóng, địch dồn dân lập các"làng tề" có vũ trang thường phối hợp với các đồn bảo an tổ chức vây giáp, bắt bớ, phục kích ở dọc “Vành đai trắng” hoặc càn quét ra vùng tự do nhằm ngăn chặn quân ta vào vùng địch hậu và nguồn tiếp tế lên chiến khu Việt Bắc. Đến nay nhân dân ở dọc “Vành đai trắng” năm xưa vẫn lưu truyền những câu chuyện “Vượt đường” đầy sinh tử. Lúc đó, các làng Chi Lễ, Khê Cầu (nay là thôn Cầu Trong và Cầu Ngoài, xã Mỹ Thái), Đức Mại (xã Dương Đức) của xã Mỹ Thái (cũ) trở lên phía Bắc là vùng tự do. Phần phía Nam xã là vùng địch hậu, có các “làng Tề”.
Lúc này, Huyện đội Lạng Giang phát động phong trào xây dựng “Làng kháng chiến”. Các làng Chi Lễ, Khê Cầu, Đức Mại trở thành “Làng kháng chiến” ở phía Tây Nam huyện. Mỗi làng có một trung đội du kích từ 20 đến 30 người. Khi xây dựng “Làng kháng chiến”, Huyện đội cử bộ đội địa phương quân về giúp. Khắp nơi rào làng, đào hầm bí mật, xây dựng giao thông hào. Mỗi làng chỉ để 2 lối ra vào, có bố trí du kích canh phòng cẩn mật.
Làng Chi Lễ lúc đó có 70 hộ, trung đội du kích do anh Hoàng Văn Tứ làm Trung đội trưởng có hơn 20 chiến sĩ đều là người trong làng. Trang bị của trung đội du kích chỉ có 1 khẩu súng Zóp, 1 khẩu Pạc Hoọc cũ và vài quả lựu đạn, còn lại là giáo mác, mã tấu, gậy. Phía sau làng có Ngõ Trong giáp với ruộng trũng và ngòi Bừng thuận tiện cho việc rút lui. Ta đào 3 hầm bí mật nằm theo thế chân vạc, trong đó hầm lớn nhất dài khoảng 40 m nằm dưới rặng tre bương già.
Đất đào hầm được bí mật đổ xuống ao hồ hoặc rải ra ngoài ruộng phía trước làng. Hầm được đào thành nhiều ngăn, sức chứa tới vài chục người. Mỗi ngăn hầm đều có cửa và có chỗ để bùn nhão trộn rơm chống khói lửa. Các ngăn hầm còn có lỗ thông hơi. Giao thông hào nối với các hầm có gài bẫy lựu đạn phòng địch tiếp cận.
Thực hiện chiến dịch tổng phá “Tề” do tỉnh phát động, du kích làng Chi Lễ vừa huấn luyện vừa sẵn sàng chiến đấu. Mỗi khi địch càn, chúng bắn pháo từ bốt Con Lợn (Tân Dĩnh), núi Cổ Phúc (Đa Mai) vào xã Mỹ Thái (cũ) dọn đường và yểm trợ cho quân tiếp cận. Địch đi càn rất đông và được trang bị đầy đủ, theo sau là dân “Tề” đi hôi của. Du kích ta có tinh thần chiến đấu cao nhưng không thể đối đầu trực tiếp với địch.
Lúc này anh vợ của Trung đội trưởng Hoàng Văn Tứ làm máy khâu chuyên cắt may quần áo cho dân làng. Cục quân nhu ở Việt Bắc quyết định trưng dụng người và máy cho bộ đội. Hai anh em gói ghém máy rồi khiêng lên làng Lụa (Định Hóa, Thái Nguyên). Khi kiểm tra tay nghề, thấy không đạt, người cán bộ phụ trách đã viết giấy trả về địa phương. Hai anh em lại lễ mễ khiêng may ra về. Khi ta mở chiến dịch Biên giới (1950), người đảng viên trẻ - Trung đội trưởng du kích Hoàng Văn Tứ được cử làm chỉ huy đưa dân công của xã đi phục vụ chiến dịch.
Hơn 2 tháng băng rừng, vượt suối, đội dân công của xã hoàn thành nhiệm vụ tải đạn, tải lương thực trở về. Khi về đến Yên Thế thượng thì anh được biết địch vừa càn lên làng Chi Lễ. Người vợ trẻ và con trai đầu lòng cùng gia đình phải tản cư lên xã Đào Mỹ. Ở với vợ con được một thời gian anh Tứ trở về làng tập hợp trung đội du kích, củng cố trận địa sẵn sàng chiến đấu. Bị thua đau ở chiến dịch Biên giới (1950) địch tổ chức nhiều trận càn rất lớn ở tỉnh Bắc Giang.
Xã Mỹ Thái (cũ) trở thành nơi diễn ra những trận chống càn rất khốc liệt. Địch tràn vào làng đốt nhà và thóc lúa, bắt trâu bò, lợn gà, phá hoại hoa màu. Dân “Tề” xúm vào tàn phá những thứ còn sót lại. Những làng mạc trù phú bỗng chốc trở thành hoang tàn dưới bàn tay độc ác của kẻ thù. Mỗi khi địch càn vào làng, anh Hoàng Văn Tứ chỉ huy du kích phân tán thành các nhóm nhỏ, lợi dụng địa hình, địa vật, từng khóm tre trong làng, bờ cây ngoài đồng để chống giặc. Ta thường dùng súng bắn nghi binh một đằng, ở phía kia cho quân bí mật tiếp cận nén lựu đạn cảnh cáo, buộc chúng phải rút quân.
Trực tiếp chỉ huy hàng chục trận đánh, nhưng ông Hoàng Văn Tứ nhớ nhất là trận đánh diễn ra vào sáng 2/2/1950. Hôm đó địch huy động khoảng 1 đại đội trang bị đầy đủ vũ khí tổ chức càn vào làng Chi Lễ. Địch chia thành hai mũi, một đi theo đường cái lớn càn vào làng, còn mũi kia bí mật luồn về phía sau làng tạo ra thế vu hồi. Trung đội dân quân cũng chia thành 3 tổ cơ động linh hoạt hỗ trợ nhau khi tác chiến. Địch vào làng, bắn như vãi đạn vào những nơi nghi ngờ, rồi phóng hỏa đốt nhà, triệt hạ cơ sở kinh tế. Du kích vừa đánh trả, vừa rút. Một số người dân trong làng chưa kịp sơ tán cũng đi theo. Địch vào được làng nhưng không dám liều lĩnh. Còn ta do vũ khí ít không đủ sức đuổi địch ra khỏi làng.
Trong tình thế nguy hiểm, Trung đội trưởng Hoàng Văn Tứ ra ám hiệu cho các tổ rút lui ra phía sau làng. Tổ du kích dẫn số người dân đi theo bí mật đi về cuối làng để sang làng Bừng (xã Tân Thanh ngày nay). Ra khỏi rặng tre gặp địch phục ở ngoài đồng buộc phải quay lại. Chúng bắn theo xối xả. Du kích vừa đánh trả vừa đưa dân rút về hầm. Nhưng không may, trước đó trong trung đội du kích có một kẻ phản bội bỏ chạy vào làng “Tề” khai báo những bí mật về du kích làng Chi Lễ.
Vào làng, địch dùng loa kêu gọi du kích đầu hàng. Đáp lại là sự im lặng, thỉnh thoảng có vài tiếng súng đáp lại. Tổ du kích có dân đi theo đã rút xuống hầm. Một số khác rút theo đường bí mật ra khỏi vòng vây. Từ nơi trú ẩn, Trung đội trưởng Hoàng Văn Tứ quan sát thấy giặc lùng sục và phát hiện ra hầm. Chúng dùng rơm và củi đốt hun khói vào hầm. Lúc đó trong hầm có 2 chiến sĩ du kích. Đang hun dở dang, chúng phát hiện căn hầm lớn nên bỏ sang đó tập trung hun khói. Hai du kích ở hầm lợi dụng địch sơ hở đã trốn thoát, trong đó một người là anh vợ và người kia về sau trở thành thông gia của cụ Tứ. Thấy căn hầm lớn có đông người, chúng phá nhà lấy củi, dùng quạt hòm để hun khói. Thấy chỗ nào có khói đùn lên, chúng liền cho đào ra và hun khói trực tiếp. Những người trú bên trong dùng bùn nhão trộn rơm trát vào cửa vách ngăn chặn khói. Do sức nóng của lửa, ngột ngạt của khói, không chịu được bao lâu mọi người lại rút vào ngăn hầm khác.
Cứ thế, giặc hun dồn mọi người vào ngăn hầm cuối cùng. Địch dùng loa chĩa vào kêu gọi đầu hàng nhưng đáp lại là sự im lặng. Chúng hun tiếp đến khi không còn nghe thấy tiếng động bên trong hầm mới dừng lại và dùng súng bắn vào trong. Căn hầm hoàn toàn im lặng. Khi nguội địch chui vào hầm lôi 10 người đã tắt thở ra ngoài, trong đó có 5 chiến sĩ du kích hy sinh gồm các ông: Triệu Văn Cừ, Trịnh Văn Bân, Nguyễn Văn Nụ, Nguyễn Văn Cam (ông Nụ và ông Cam là anh em ruột) và ông Hoàng Văn Kiểm, sau này được truy tặng là liệt sĩ.
Trời tối, địch rút quân. Trung đội trưởng Hoàng Văn Tứ cùng các chiến sĩ từ nơi ẩn nấp ùa ra ôm lấy xác đồng đội trong nỗi xót xa vô bờ. Trong buổi lễ truy điệu, trung đội du kích và nhân dân làng Chi Lễ thề quyết tâm chiến đấu đến cùng.
Tận tâm xây dựng quê hương
Hòa bình lập lại, ông Hoàng Văn Tứ vẫn làm Trung đội trưởng du kích. Khi cải cách ruộng đất, gia đình ông bị quy sai thành phần, bản thân ông bị lưu Đảng rồi xóa tên. Khi sửa sai, gia đình ông hạ xuống thành phần trung nông, nhưng ông không được phục hồi đảng tịch. Ông hăng hái công tác và được đề bạt làm Xã Đội phó, rồi Xã Đội trưởng. Năm 1958, khi xã Mỹ Thái (cũ) lại tách ra thành xã Xuân Hương, một phần xã Dương Đức và xã Mỹ Thái (ngày nay), ông Tứ được cử làm Thường trực Ủy ban hành chính xã.
Cụ Hoàng Văn Tứ chỉ tay về khu vực từng là cửa hầm bị giặc hun khói làm 5 chiến sĩ du kích hy sinh và 5 người dân vô tội bị chết.
Tại cuộc bầu cử HĐND xã năm 1959, ông Tứ được bầu làm Phó Chủ tịch Ủy ban hành chính xã. Ngày 6/1/1960 ông Hoàng Văn Tứ được kết nạp Đảng lại và tiếp tục giữ chức Phó Chủ tịch Ủy ban hành chính xã đến năm 1965. Tại khóa HĐND xã từ năm 1965 đến 1967, ông được bầu giữ chức Chủ tịch Ủy ban hành chính xã Mỹ Thái rồi được điều động lên công tác ở Phòng Nông nghiệp phụ trách xã Dĩnh Trì (nay thuộc TP Bắc Giang).
Khi thực hiện chủ trương giảm biên chế, ông làm đơn xin về nghỉ song lại được địa phương giao trọng trách Chủ tịch Ủy ban hành chính xã 2 khóa liên tiếp (1971 đến 1975), rồi làm Bí thư Đảng ủy xã Mỹ Thái. Năm 1978, ông chuyển sang làm Chủ nhiệm Hợp tác xã nông nghiệp, rồi lại được bầu làm Chủ tịch UBND xã lần thứ 3 đến năm tháng 5/1984 ông về nghỉ hưu.
Gần 40 năm công tác, ở cương vị nào ông Hoàng Văn Tứ cũng hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, được Đảng tin, dân mến. Qua chiến đấu và công tác, ông Hoàng Văn Tứ được tặng 1 Huân chương kháng chiến chống Pháp hạng Ba, Huân chương kháng chiến chống Mỹ hạng Nhì và hạng Ba, Huy hiệu từ 30 đến 65 năm tuổi Đảng và rất nhiều phần thưởng khác.
Cụ Hoàng Văn Tứ có 9 người con. Các con của cụ đều hưng hái lao động sản xuất, có cuộc sống khá giả, sống hòa thuận, ấm tình làng, nghĩa xóm. Cụ Hoàng Văn Tứ là nhân chứng duy nhất của Trung đội du kích Chi Lễ năm xưa hiện còn sống. Gần 75 năm đã qua nhưng cụ vẫn nhớ như in ngày bi thương đó. Trận chống càn năm xưa tuy có mất mát rất lớn, nhưng đã thể hiện được tinh thần, bản lĩnh của người dân ở xã anh hùng. Cụ mong muốn sự kiện đó sớm được đưa vào lịch sử đấu tranh cách mạng của Đảng bộ xã Mỹ Thái, là bằng chứng ghi lại tinh thần đấu tranh quả cảm của những con người quê hương và để giáo dục truyền thống cho thế hệ trẻ.
Thân Văn Phương