Già A Jar đưa Giông và Giớ về xuôi

Già A Jar đưa Giông và Giớ về xuôi
8 giờ trướcBài gốc
Trong căn nhà nhỏ ở phường Kon Tum, tôi gặp già A Jar - người hơn 20 năm qua đã cần mẫn ngồi chép lại từng lời kể sử thi bằng tiếng Ba Na, Xơ Đăng và thu âm bằng băng cassette để dịch sang tiếng Việt.
Già đưa tôi vào phòng khách, có lẽ cũng là nơi làm việc vì hàng chục bộ sử thi dày cộp sắp ngay ngắn trên giá sách, còn bàn làm việc bên cạnh là chồng vở học trò cao quá khuỷu tay.
Trong ánh sáng mờ ảo, căn phòng này như chứa đựng nghìn năm huyền sử của Tây Nguyên.
Tiếng vọng giữa đại ngàn
Chân yếu, đi lại khó khăn nên già A Jar nhờ tôi mang chồng vở ra hiên nhà để trò chuyện. Trang nào cũng kín chữ, nét bút tròn đều, ngay ngắn, như thể người viết sợ ai đó đọc mà không rõ ký ức của tổ tiên mình.
“Đây là bản dịch sử thi tôi chép lại suốt 20 năm qua. Tôi không phải người giữ hồn Tây Nguyên đâu. Tôi chỉ dịch, để ai cũng có thể đọc được tiếng nói của tổ tiên mình”, già A Jar nói với giọng chậm rãi.
Già A Jar. Ảnh: NHẬT THẢO
Già A Jar là nghệ nhân ưu tú, người dân tộc Xơ Đăng. Tôi biết đến già A Jar qua nhà văn Đinh Su Giang - Chủ tịch Hội VH - NT tỉnh Quảng Ngãi. Với những người làm văn hóa, công việc của già A Jar là một chiếc cầu nối quý giá - giúp những trầm tích văn hóa của núi rừng vượt qua giới hạn ngôn ngữ, đến gần hơn với cộng đồng.
Từ những bản kể miệng, qua giọng kể của già làng bằng tiếng Xơ Đăng, Ba Na, già A Jar chuyển hóa thành tiếng Việt nhưng vẫn giữ được nhịp điệu, tiết tấu và mạch cảm xúc nguyên sơ. Một trong những tác phẩm tiêu biểu mà ông chép lại là sử thi “Giông, Giớ mồ côi từ nhỏ”. Ông bảo mình dịch suốt ba mùa rẫy, vì sợ người kể mất rồi thì tiếng nói ấy cũng đi theo.
Quyển sử thi Ba Na “Giông, Giớ mồ côi từ nhỏ” dày hơn 600 trang, do Viện Khoa học Xã hội Việt Nam xuất bản năm 2025. Tôi lật ngay đến trang cuối, đoạn sau khi chiến thắng kẻ thù và trở về thượng nguồn, ông Set - người đứng đầu buôn làng - đã gọi người dân đến mở lễ ăn mừng.
Giữa núi rừng, lời ông Set vang lên giản dị mà sâu sắc: “Hỡi bà con dân làng, các anh em họ hàng, các con, các cháu... Hôm nay quê hương ta đã yên bình. Chiến thắng thuộc về chúng ta. Chúng ta phải làm rẫy, trồng cây lúa, củ khoai cho nhiều. Muốn có cuộc sống ấm no, tay chân ta phải làm cho nhiều, không được chà đạp lên người khác...” (trích “Giông, Giớ mồ côi từ nhỏ” - trang 612).
Nếu tôi không dịch, người miền xuôi không hiểu. Mà nếu không ai hiểu, thì tiếng nói của rừng sẽ mất đi nhiều ý nghĩa”.
Già A JAR
Rồi ông Set dặn dân làng phải yêu thương nhau, giúp đỡ người yếu, tôn trọng người già, không lừa lọc trong buôn bán. “Của nào trị giá bằng một con bò, ta trả một con bò. Của nào trị giá bằng một con lợn, thì trả một con lợn. Của ta trị giá bằng con voi mà trả bằng con lợn - con người ấy không xứng đáng là dân quê hương Set nữa” (trích “Giông, Giớ mồ côi từ nhỏ” - trang 612).
Những lời răn ấy cứ như trở thành một “hiến chương đạo lý” của người Ba Na. Không triết lý cầu kỳ, không giáo điều, nhưng chứa đựng tinh thần nhân ái, công bằng và trọng nghĩa - những giá trị cốt lõi của mọi nền văn hóa.
Tôi lại đọc tiếp, đoạn khi ông Set kết thúc bằng lời: “Xưa kia ta đã chết trên xứ người... Hôm nay ta được sống lại. Ta sẽ tiếp tục chỉ dẫn cho tất cả anh em về lẽ sống. Chúng ta phải sống như ta nói, như ta đã chỉ thì mọi việc sẽ thành tốt đẹp” (trích “Giông, Giớ mồ côi từ nhỏ” - trang 613).
“Để có hơn 600 trang trong cuốn sử thi này, 20 năm trước tôi đã nghe già A Lưu - người kể hơ mon nổi tiếng nhất dân tộc Ba Na - suốt mấy đêm liền bên bếp lửa”, già A Jar đang nói về già A Lưu - người đã dành cả cuộc đời cho sử thi Ba Na, với gần 100 bài hơ mon được lưu giữ và hát kể.
Nhà văn Đinh Su Giang tâm sự, những đoạn như thế, nếu không có người như A Jar, chúng ta khó có thể tiếp cận bằng tiếng Việt. Ông không thêm thắt, không sáng tác lại, mà dịch bằng lòng trung thực và cảm xúc của người từng sống trong môi trường văn hóa ấy.
Lưu giữ cho muôn đời
Già A Jar năm nay ngoài 70 tuổi, sinh ra trong tiếng chiêng và tiếng gió của đại ngàn. Ông lớn lên giữa những đêm hội kể khan - nơi thần núi, thần suối, anh hùng và con người cùng tồn tại trong trí nhớ cộng đồng.
Không học trường lớp chính quy, nhưng sự say mê học hỏi đã giúp già A Jar không chỉ giỏi tiếng Việt, mà còn thạo cả tiếng Anh và nhiều ngôn ngữ của các dân tộc khác. Hơn 20 năm qua, ông đã tham gia dịch hơn 40 bộ sử thi của hai dân tộc Ba Na và Xơ Đăng - một khối tư liệu đồ sộ hàng chục nghìn trang.
Tất cả đều viết tay, đóng trong những quyển vở học sinh, ghi rõ tên người kể, ngày nghe, nơi chép và những chú thích bằng tiếng bản địa. Một phần trong đó hiện đã được xuất bản, lưu trữ tại Viện Khoa học Xã hội Việt Nam.
Già A Jar đã hơn 20 năm cần mẫn chép lại sử thi Ba Na. Ảnh: NHẬT THẢO
Giữ tiếng nói sử thi, với già A Jar, không phải chỉ là việc lưu trữ ký ức bằng chữ viết, mà là giữ mạch đối thoại giữa con người Tây Nguyên với thiên nhiên và cộng đồng. Trong các bản dịch tôi đã đọc, rõ ràng người dịch không cố gắng “làm văn”. Chính sự trung thực về ngôn ngữ đã khiến sử thi vừa hùng tráng vừa gần gũi.
“Tôi chỉ dịch lại để người dưới xuôi đọc được. Khi họ đọc rồi, họ sẽ hiểu vì sao chúng tôi sống như thế”, già A Jar cười hiền.
Già A Jar không nhận mình là “người giữ hồn Tây Nguyên”, vì “hồn Tây Nguyên” nằm trong tiếng nói của mọi người dân, trong lời kể của già làng, trong lễ hội, trong tiếng chiêng vang giữa rẫy. Chiều giao mùa ở phố núi, mưa đổ xuống mái nhà nhỏ. Già A Jar run run khép lại cuốn vở học sinh, ngẩng nhìn ra rừng xa.
Tôi lặng nhìn già A Jar và có một niềm tin rằng sử thi Tây Nguyên sẽ đến gần hơn với công chúng. Tôi cúi đầu, đọc nốt đoạn cuối của “Giông, Giớ mồ côi từ nhỏ”: “Thôi, bây giờ chúng ta bắt đầu ăn uống đi! Tiếng reo hò vang dội cả núi rừng và trời đất. Ông Set hô to: “Nào tất cả anh em, chúng ta hãy ăn mừng thỏa thích, bao nhiêu ngày, bao nhiêu tháng cũng được!” (trích “Giông, Giớ mồ côi từ nhỏ” - trang 613).
Đó không chỉ là khúc ca kết thúc một sử thi. Đó là lời khẳng định về sức sống bất diệt của con người, của văn hóa, của ngọn lửa Tây Nguyên đang được những người như già A Jar lặng lẽ giữ gìn.
Giữa cơn gió của toàn cầu hóa, khi quá khứ dễ bị cuốn trôi bởi tốc độ và công nghệ, ta vẫn nghe vang vọng đâu đó lời của ông Set năm xưa: “Của nào trị giá bằng con bò, ta trả con bò. Con người không sống công bằng thì không xứng đáng là dân của quê hương Set nữa”.
Một thông điệp của người Ba Na: Sống tử tế, nhân hậu và công bằng - dù ở bất cứ nơi đâu.
HỒ NHẬT THẢO
Nguồn Quảng Ngãi : https://baoquangngai.vn/gia-a-jar-dua-giong-va-gio-ve-xuoi-63728.htm