Kinh tế Việt Nam “nhạy cảm” với biến động giá dầu
Đợt tăng giá dầu gần đây trên thị trường toàn cầu, có lúc vượt mốc 80 USD/thùng, chủ yếu do căng thẳng địa chính trị leo thang tại Trung Đông và lo ngại ngày càng tăng về khả năng phong tỏa eo biển Hormuz (eo biển nằm giữa vịnh Oman phía Đông Nam và vịnh Ba Tư ở Tây Nam) - tuyến đường chiến lược mà hơn 20% nguồn cung dầu toàn cầu đi qua. Dù tín hiệu hạ nhiệt từ Iran đã khiến giá dầu giảm về mức 65-70 USD/thùng, cú sốc ban đầu vẫn tiếp tục tác động đến kinh tế toàn cầu, trong đó có Việt Nam.
Thực phẩm và dịch vụ ăn uống là nhóm mặt hàng tiêu tốn nhiều năng lượng, khiến giá của chúng rất nhạy với biến động chi phí nhiên liệu. Ảnh: LV
TS. Vũ Thị Hồng Nhung - giảng viên Khoa Kinh doanh, Đại học RMIT Việt Nam cho biết, dù có xuất khẩu một lượng dầu thô nhất định, năng lực lọc dầu còn hạn chế và trữ lượng khiêm tốn trong nước khiến Việt Nam vẫn phải phụ thuộc không nhỏ vào việc nhập khẩu các sản phẩm dầu tinh chế. Chính sự phụ thuộc cơ cấu này khiến nền kinh tế rất nhạy cảm với biến động giá dầu thế giới.
Tháng 6/2025, chỉ số giá tiêu dùng (CPI) của Việt Nam tăng 0,48% so với tháng trước đó và hơn 3,57% so với cùng kỳ năm trước. Dù mức tăng vẫn nằm trong mục tiêu kiểm soát lạm phát của Nhà nước theo Nghị quyết 192/2025/QH15 (4,5%-5%), con số này phản ánh áp lực lạm phát do chi phí đẩy vẫn đang tồn tại. Nguyên nhân chính là chi phí năng lượng tăng cao, đặc biệt là nhiên liệu nhập khẩu, một yếu tố then chốt trong toàn bộ chuỗi cung ứng của Việt Nam.
TS. Nhung nhận định: “Khi giá dầu toàn cầu tăng, chi phí nhiên liệu trong nước bị tác động nhanh chóng, lan qua các lĩnh vực vận tải, logistics, sản xuất và đến giá cả tiêu dùng cũng bị ảnh hưởng”.
Phân tích rõ hơn tính nhạy cảm này, vị chuyên gia Đại học RMIT cho biết, khoảng 9,67% rổ CPI của Việt Nam thuộc nhóm giao thông bao gồm dịch vụ vận tải. Trong khi đó, thực phẩm và dịch vụ ăn uống chiếm khoảng 33,56% và cũng là nhóm mặt hàng tiêu tốn nhiều năng lượng, khiến giá của chúng rất nhạy với biến động chi phí nhiên liệu.
Xăng và dầu diesel là những loại nhiên liệu được dùng phổ biến trong hệ thống vận tải nội địa, đồng thời được sử dụng rộng rãi trong các lĩnh vực như xay xát lúa gạo, tàu đánh cá và hệ thống tưới tiêu. Bên cạnh đó, chi phí logistics chiếm 10-15% chi phí sản xuất ở nhiều ngành, giá phân bón cũng gắn chặt với giá dầu và khí đốt thế giới.
Theo TS. Nhung, mặc dù giá dầu hiện đã hạ nhiệt so với đỉnh gần đây, chi phí năng lượng và logistics vẫn ở mức cao. Bà cho rằng, căng thẳng địa chính trị hoàn toàn có thể bùng phát trở lại bất cứ lúc nào, đẩy giá dầu tăng và tái kích hoạt lạm phát.
“Nếu không có các biện pháp chính sách đủ mạnh làm “đệm đỡ”, nền kinh tế sẽ tiếp tục chịu ảnh hưởng từ những cú sốc đột ngột. Biến động giá này ảnh hưởng trực tiếp đến sức mua của người dân, đặc biệt là nhóm thu nhập thấp và làm thu hẹp dư địa chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước”- TS. Nhung lưu ý.
Cần một chiến lược chính sách hai chiều
Để giảm bớt tác động tiêu cực của việc giá dầu tăng đối với nền kinh tế Việt Nam, TS. Phan Thanh Chung - giảng viên Kinh tế tại Đại học RMIT cho rằng, Việt Nam cần một chiến lược chính sách hai chiều: biện pháp ngắn hạn để ứng phó tức thời và cải cách dài hạn để nâng cao khả năng tự phục hồi trước biến động năng lượng.
Theo đó, trong ngắn hạn, Chính phủ có thể cung cấp hỗ trợ có mục tiêu cho các nhóm dễ bị tổn thương và các ngành then chốt. Đồng thời, cần tăng cường Quỹ bình ổn giá xăng dầu để có công cụ điều tiết khi giá tăng đột biến.
Ảnh minh họa
Bên cạnh đó, có thể hỗ trợ trực tiếp như trợ cấp tiền mặt hoặc phiếu mua nhiên liệu, nên tập trung vào các hộ thu nhập thấp, nông dân và lao động trong ngành vận tải - những nhóm chịu ảnh hưởng nhiều nhất.
Về phía chính sách tiền tệ, theo TS. Chung, Ngân hàng Nhà nước nên giữ lập trường thận trọng, cân bằng giữa mục tiêu kiểm soát lạm phát và duy trì tăng trưởng. Việc đảm bảo doanh nghiệp nhỏ và vừa có thể tiếp cận tín dụng giá rẻ để ứng phó với chi phí năng lượng là rất quan trọng. Trong khi đó, kiểm soát giá tạm thời đối với các hàng hóa, dịch vụ thiết yếu như giao thông công cộng và thực phẩm cơ bản cũng sẽ giúp ngăn chặn hiệu ứng lạm phát lan tỏa.
Về dài hạn, vấn đề mấu chốt là cần cải cách cơ cấu. Theo đó, đa dạng hóa nguồn năng lượng bằng cách đẩy nhanh phát triển năng lượng tái tạo như điện mặt trời, điện gió và năng lượng sinh khối sẽ giúp giảm phụ thuộc vào dầu mỏ nhập khẩu.
“Nâng cao hiệu quả sử dụng năng lượng và khuyến khích xe điện cũng sẽ giúp giảm áp lực từ phía cầu. Mở rộng thăm dò dầu khí trong nước và xây dựng kho dự trữ dầu chiến lược sẽ tăng cường an ninh năng lượng. Cuối cùng, đầu tư vào hệ thống giao thông công cộng và hạ tầng đô thị sẽ giúp giảm tiêu thụ nhiên liệu trong dài hạn”- TS. Chung khuyến nghị.
Rủi ro lạm phát từ giá dầu
Năm 2008, khi giá dầu toàn cầu đạt mức kỷ lục 147 USD/thùng, chỉ số lạm phát trong 8 tháng đầu năm 2008 của Việt Nam đã tăng 21,65% so với 8 tháng đầu năm cùng kỳ năm trước, mức cao nhất trong hơn một thập kỷ, chủ yếu do giá nhiên liệu và thực phẩm tăng mạnh, cộng với việc từng bước bỏ trợ giá nhiên liệu. Năm 2011, “Mùa xuân Ả Rập” khiến giá dầu tăng lên 120 đô la Mỹ/thùng và lạm phát tại Việt Nam hết tháng 4/2011 tăng lên 17,51% so với tháng 4 cùng kỳ năm trước. Gần đây nhất, đầu năm 2022, giá dầu tiến sát mức 120 USD/thùng vào tháng 3/2022 do xung đột Nga-Ukraine, tỷ lệ lạm phát tháng 3/2022 ở Việt Nam tăng 2,41% so với cùng kỳ năm trước và lạm phát tiếp tục tăng lên 3,37% vào tháng 6/2022 so với cùng kỳ năm trước.
Hà My