Giá trị trường tồn của 'Lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến'

Giá trị trường tồn của 'Lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến'
10 giờ trướcBài gốc
Ngày 18 và 19/12/1946, thực dân Pháp gửi tối hậu thư đòi ta phải trao quyền kiểm soát Thủ đô. Trước âm mưu, hành động xâm lược của kẻ thù, Nhân dân Việt Nam không có con đường nào khác là cầm súng chiến đấu để bảo vệ độc lập, tự do. Ngày 18 - 19/12/1946, Ban Thường vụ Trung ương Đảng đã họp hội nghị tại Vạn Phúc (Hà Đông), quyết định phát động toàn quốc kháng chiến. Ngay đêm đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Trung ương Đảng và Chính phủ ra Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến:
“Hỡi đồng bào toàn quốc! Chúng ta muốn hòa bình, chúng ta phải nhân nhượng. Nhưng chúng ta càng nhân nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới, vì chúng quyết tâm cướp nước ta lần nữa! Không! Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ… Dù phải gian lao kháng chiến, nhưng với một lòng kiên quyết hy sinh, thắng lợi nhất định về dân tộc ta!”.
Ra đời trong thời khắc lịch sử đặc biệt, “Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến” của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tác động đến sâu thẳm lòng yêu nước và ý chí quật cường của dân tộc, trở thành biểu tượng lớn của sức mạnh đại đoàn kết. Lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng với Chỉ thị Toàn dân kháng chiến của Ban Thường vụ Trung ương Đảng và tác phẩm Kháng chiến nhất định thắng lợi của Tổng Bí thư Trường Chinh đã xác lập đường lối kháng chiến “toàn dân, toàn diện, trường kỳ và dựa vào sức mình là chính” trở thành ánh sáng soi đường cho dân tộc ta đi đến thắng lợi trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược.
Đại đoàn Quân Tiên phong 308 về tiếp quản Thủ Đô. Ảnh: Tư liệu
Toàn quốc kháng chiến mở ra cuộc chiến tranh Nhân dân trường kỳ, đặt nền tảng cho đường lối kháng chiến toàn dân, toàn diện, lâu dài và dựa vào sức mình là chính. Từ Hà Nội 60 ngày đêm khói lửa đến chiến khu Việt Bắc, từ đô thị đến nông thôn, tinh thần “quyết tử để Tổ quốc quyết sinh” đã biến thành sức mạnh làm nên thắng lợi Điện Biên Phủ năm 1954, chấm dứt ách thống trị của thực dân Pháp.
Thành công của những ngày đầu toàn quốc kháng chiến và cuộc kháng chiến chống Pháp là nhân tố quan trọng, tạo tiền đề cho thắng lợi vĩ đại của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, hoàn thành vẻ vang sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc kéo dài suốt 30 năm của quân và dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng. Toàn quốc kháng chiến đã đi vào lịch sử dân tộc như một mốc son chói lọi về tinh thần yêu nước, ý chí kiên cường của Nhân dân Việt Nam trong thế kỷ XX và để lại nhiều bài học vô cùng quý giá.
Bước vào kỷ nguyên mới, để tiếp tục phát huy tinh thần toàn quốc kháng chiến, đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, bảo vệ vững chắc Tổ quốc, toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta cần nhận thức sâu sắc tình hình mới, yêu cầu, nhiệm vụ mới; phát huy cao độ quyết tâm chính trị, tiếp tục đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới, tận dụng mọi thời cơ, vượt qua mọi khó khăn, thách thức.
Trong công cuộc đổi mới, để giữ vững và bảo vệ nền độc lập, tự do, hòa bình lâu dài của đất nước, tư tưởng “hòa bình” mà Chủ tịch Hồ Chí Minh thắp lên từ ngày đầu phát động Nhân dân bước vào cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược đã luôn soi đường, chỉ lối cho Đảng ta, Nhân dân và các lực lượng vũ trang tập trung giải quyết tốt mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ chiến lược là xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Khát vọng hòa bình, ngăn chặn và đẩy lùi các nguy cơ phá hoại, xâm lược, bảo vệ vững chắc nền độc lập, tự do đất nước ta không chỉ được nuôi dưỡng, hun đúc, phát huy trong mọi tầng lớp nhân dân và các lực lượng vũ trang, mà còn được cụ thể hóa bằng những hành động, việc làm cụ thể trong xây dựng đất nước.
BQ (tổng hợp)
Nguồn Thừa Thiên Huế : https://huengaynay.vn/chinh-tri-xa-hoi/theo-dong-thoi-su/gia-tri-truong-ton-cua-loi-keu-goi-toan-quoc-khang-chien-161018.html