Trong 6 tháng đầu năm 2025, thị trường hàng hóa thế giới chịu nhiều biến động phức tạp do các yếu tố chính trị, kinh tế và xã hội. Cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn ngày càng gay gắt, đặc biệt việc Hoa Kỳ thay đổi chính sách thuế nhằm bảo vệ nền kinh tế trong nước gây căng thẳng thương mại và ảnh hưởng chuỗi cung ứng toàn cầu. Xung đột quân sự Nga – Ukraine tiếp tục leo thang, cùng với cuộc chiến tranh giữa Iran và Issrael ảnh hưởng tiêu cực đến ổn định khu vực và kinh tế thế giới. Nhiều quốc gia duy trì chính sách tiền tệ thắt chặt, tổng cầu yếu khiến kinh tế thế giới tăng trưởng chậm lại.
Lạm phát có xu hướng hạ nhiệt, tuy nhiên các ngân hàng trung ương như FED và BoE vẫn giữ nguyên lãi suất trong tháng 6/2025 để theo dõi và điều chỉnh phù hợp. Cụ thể, lạm phát Mỹ tháng 5/2025 tăng 2,4% so cùng kỳ, FED giữ lãi suất ở mức 4,25%-4,5%; lạm phát Anh tháng 5 là 3,4%, BoE giữ lãi suất cơ bản 4,25%. Lạm phát khu vực đồng Euro tháng 5 tăng nhẹ từ 0,7% đến 2,1% tùy quốc gia; châu Á có Nhật Bản tăng 3,5%, Hàn Quốc 1,9%, Philippines 1,3%, trong khi Thái Lan giảm 0,6%, Trung Quốc giảm 0,1%.
Tại Việt Nam, Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ đã chủ động, quyết liệt chỉ đạo các bộ, ngành, địa phương triển khai nhiều giải pháp nhằm tháo gỡ khó khăn, thúc đẩy tăng trưởng, giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô và kiểm soát lạm phát.
Các biện pháp gồm đảm bảo thông suốt cung ứng, lưu thông, phân phối hàng hóa, dịch vụ; giảm mặt bằng lãi suất cho vay; ổn định thị trường ngoại hối; thúc đẩy giải ngân vốn đầu tư công; triển khai gói tín dụng hỗ trợ các ngành; giảm thuế giá trị gia tăng một số nhóm hàng hóa, giảm thuế bảo vệ môi trường với xăng dầu; miễn, giảm, gia hạn thuế, phí, tiền sử dụng đất hỗ trợ doanh nghiệp và người dân; tổ chức theo dõi sát diễn biến cung cầu, giá cả thị trường để điều hành phù hợp. Nhờ đó, lạm phát được kiểm soát tốt, CPI bình quân 6 tháng đầu năm tăng 3,27% so cùng kỳ năm trước.
Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 6/2025 tăng 0,48% so với tháng trước, trong đó khu vực thành thị tăng 0,5%, nông thôn tăng 0,45%. Trong 11 nhóm hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng chính, có 10 nhóm tăng giá, riêng nhóm bưu chính, viễn thông giảm 0,02%. Nhóm giao thông tăng 1,66%, tác động làm CPI chung tăng 0,16 điểm phần trăm, chủ yếu do giá dầu diesel tăng 5,37%, xăng tăng 4,12% theo điều chỉnh giá xăng dầu trong nước và giá vận tải đường sắt tăng 5,15%.
Nhóm nhà ở, điện nước, chất đốt và vật liệu xây dựng tăng 1,42%, tác động làm tăng CPI chung 0,27 điểm phần trăm, do giá vật liệu bảo dưỡng nhà ở tăng 2,93 vì nguồn cung khan hiếm, giá thuê nhà tăng 0,51%, giá điện sinh hoạt tăng 5% do nhu cầu sử dụng điện tăng và EVN điều chỉnh giá từ ngày 10/5/2025; giá nước sinh hoạt và dầu hỏa cũng tăng nhẹ.
Tốc độ tăng/giảm CPI tháng 6/2025 so với tháng trước. Nguồn: Cục Thống kê
Nhóm văn hóa, giải trí và du lịch tăng 0,27% do nhu cầu du lịch mùa hè tăng; nhóm đồ uống và thuốc lá tăng 0,2% do chi phí sản xuất và nhu cầu tăng trong mùa nắng nóng. Nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 0,06%, trong đó lương thực giảm 0,31%, thực phẩm tăng 0,02%, ăn uống ngoài gia đình tăng 0,3%.
Các nhóm thuốc và dịch vụ y tế, thiết bị và đồ dùng gia đình, may mặc, mũ nón, giày dép, hàng hóa và dịch vụ khác cũng tăng nhẹ. Ngược lại, nhóm bưu chính, viễn thông giảm 0,02% do giá điện thoại di động thông minh và phụ kiện giảm.
So với cùng kỳ năm trước, CPI tháng 6/2025 tăng 3,57%, trong đó nhóm thuốc và dịch vụ y tế tăng cao nhất 12,92% do điều chỉnh giá dịch vụ y tế theo Thông tư số 21/2024/TT-BYT của Bộ Y tế, làm CPI chung tăng 0,7 điểm phần trăm. Nhóm nhà ở, điện nước, chất đốt và vật liệu xây dựng tăng 7,23%, tác động làm tăng CPI chung 1,36 điểm phần trăm, với giá nhà thuê tăng 7,87%, dịch vụ sửa chữa nhà tăng 5,46%, giá điện sinh hoạt tăng 8,48%, vật liệu bảo dưỡng nhà tăng 6,52%, dịch vụ nước sinh hoạt tăng 4,85%.
Nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 3,01%, tác động làm CPI tăng 1,01 điểm phần trăm, trong đó thực phẩm tăng 3,16%, ăn uống ngoài gia đình tăng 3,76%. Nhóm giáo dục tăng 3,06%, văn hóa, giải trí và du lịch tăng 1,7%, đồ uống và thuốc lá tăng 2,1%, thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 1,68%, may mặc tăng 1,35%, hàng hóa và dịch vụ khác tăng 6,68%.
Ngược lại, nhóm giao thông giảm 1,87% do giá xăng dầu giảm 8,32% và xe ô tô mới giảm 0,57%; nhóm bưu chính, viễn thông giảm 0,24% do giá điện thoại và phụ kiện giảm.
Chỉ số giá vàng trong nước tháng 6/2025 giảm 1,27% so tháng 5 nhưng tăng 48,01% so cùng kỳ năm trước; bình quân quý II tăng 43,62%, 6 tháng đầu năm tăng 37,4%. Giá vàng thế giới bình quân tháng 6 tăng 1,93% do bất ổn địa chính trị Trung Đông và nhu cầu mua vàng từ ngân hàng trung ương, quỹ đầu tư tăng.
Giá vàng trong nước ngược chiều với thế giới do Ngân hàng Nhà nước hoàn thiện dự thảo sửa đổi Nghị định 24/2012/NĐ-CP, bỏ độc quyền sản xuất vàng miếng và độc quyền vàng, tạo áp lực điều chỉnh giá trong nước.
Giá vàng trong nước tăng mạnh 48,01% so với cùng kỳ năm trước.
Chỉ số giá đô la Mỹ trong nước tháng 6/2025 tăng 0,32% do nhu cầu ngoại tệ phục vụ thanh toán xuất nhập khẩu tăng; trong khi chỉ số giá đô la Mỹ trên thị trường quốc tế giảm 1,34% do kỳ vọng FED cắt giảm lãi suất trong tháng 7/2025 và lo ngại chính sách tiền tệ bị ảnh hưởng bởi yếu tố chính trị. Bình quân 6 tháng đầu năm, chỉ số giá đô la Mỹ trong nước tăng 3,3% so cùng kỳ.
Chỉ số giá sản xuất sản phẩm nông, lâm nghiệp và thủy sản quý II/2025 giảm 0,65% so quý trước nhưng tăng 4,68% so cùng kỳ; 6 tháng đầu năm tăng 6,47%. Trong đó, sản phẩm nông nghiệp và dịch vụ liên quan tăng 7,35%, lâm nghiệp tăng 3,66%, thủy sản tăng 3,82%. Giá sản phẩm cây lâu năm tăng 12,24%, đặc biệt giá hồ tiêu tăng 54,24%, cà phê nhân tăng 43,01%, mủ cao su tăng 30,46% do nhu cầu nguyên liệu tăng cao. Giá sản phẩm chăn nuôi tăng 7,78% do nhu cầu tăng và dịch bệnh ảnh hưởng nguồn cung.
Chỉ số giá sản xuất sản phẩm công nghiệp quý II/2025 tăng 0,56% so quý trước, tăng 1,65% so cùng kỳ; 6 tháng đầu năm tăng 1,95%. Giá sản phẩm khai khoáng giảm 3,34% so quý trước và giảm 7,05% so cùng kỳ do giá dầu thô và khí đốt giảm theo thị trường thế giới. Ngược lại, giá sản phẩm điện, khí đốt, nước nóng tăng 9,83% do mùa khô hạn, sản lượng thủy điện giảm và EVN tăng giá điện từ 10/5/2025.
Chỉ số giá nguyên nhiên vật liệu dùng cho sản xuất quý II/2025 tăng 0,67% so quý trước và tăng 3,7% so cùng kỳ; 6 tháng đầu năm tăng 3,84%. Giá nguyên liệu chăn nuôi tăng 16,93% do dịch bệnh làm giảm nguồn cung, giá điện sản xuất tăng 7,47%, giá đá, cát, sỏi tăng 8,17% do hạn chế khai thác, làm tăng chi phí xây dựng.
Chỉ số giá xuất khẩu hàng hóa quý II/2025 giảm 0,59% so quý trước nhưng tăng 2,46% so cùng kỳ; 6 tháng đầu năm tăng 3,68% nhờ giá nông sản, thực phẩm tăng mạnh như cà phê (+57,11%), hạt tiêu (+54,18%).
Ngược lại, giá xăng dầu giảm 11,95%, thức ăn gia súc giảm 8,57%, gạo giảm 7,9%. Chỉ số giá nhập khẩu hàng hóa quý II giảm 0,3% so quý trước và giảm 1,56% so cùng kỳ; 6 tháng đầu năm giảm 1,57%, trong đó giá nhiên liệu giảm 7,29%, than đá giảm 16,49%, thức ăn chăn nuôi giảm 14,97%, lúa mì giảm 9,38%, sắt thép giảm 9,23%. Tỷ giá thương mại hàng hóa (TOT) quý II giảm 0,29% so quý trước nhưng tăng 4,09% so cùng kỳ; 6 tháng đầu năm tăng 5,33%, thể hiện lợi thế về giá xuất khẩu so với giá nhập khẩu.
Nga Chen