Giải bài toán phân luồng giáo dục trong bối cảnh mới

Giải bài toán phân luồng giáo dục trong bối cảnh mới
14 giờ trướcBài gốc
Vì sao phân luồng giáo dục ở nước ta không thành công?
Đến nay, có thể nói thể chế, chính sách phân luồng giáo dục nước ta đã không ngừng được phát triển trong một tiếp cận tổng thể bao gồm thể chế, chính sách trước phân luồng (đẩy mạnh giáo dục hướng nghiệp trong nhà trường phổ thông), trong phân luồng (nâng cao chất lượng và hiệu quả giáo dục nghề nghiệp) và sau phân luồng (xây dựng hệ thống giáo dục nghề nghiệp (GDNN) mở, linh hoạt, liên thông, tạo không gian khoáng đạt về việc làm, học tập và thăng tiến để học sinh yên tâm bước vào luồng nghề nghiệp).
Tuy nhiên, đến nay dù rằng đã có một số chuyển biến nhất định, nhưng tỷ lệ học sinh tốt nghiệp THCS và THPT vào GDNN còn rất thấp, khoảng 15%. Tình trạng này dẫn đến sự mất cân đối nghiêm trọng về trình độ đào tạo trong lực lượng lao động, ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế-xã hội, đặc biệt trong bối cảnh chuyển đổi số, chuyển đổi xanh và hội nhập quốc tế.
Giờ thực hành của sinh viên Trường cao đẳng Kỹ nghệ II, thành phố Thủ Đức. Ảnh: Duy Khánh
Dẫn chứng từ kinh nghiệm thế giới, TSKH. Phạm Đỗ Nhật Tiến cho biết, phân luồng giáo dục trên thế giới được thực hiện theo nhiều mô hình đa dạng, nhưng đều hướng tới việc tối ưu hóa sự phù hợp giữa năng lực, sở thích người học với nhu cầu của thị trường lao động.
Ông Tiến chia sẻ, về cơ bản, có ba mô hình chính, gồm phân luồng sớm (ngay từ sau tiểu học, như ở Đức, Áo, Thụy Sĩ, Hà Lan); phân luồng muộn (sau THCS và THPT, điển hình ở các nước Bắc Âu và Bắc Mỹ); phân luồng linh hoạt và liên thông (nhiều nước Châu Âu đang chuyển đổi sang mô hình này nhằm tối ưu hóa cơ hội phát triển cá nhân, giảm thiểu bất bình đẳng xã hội và thích ứng với thị trường lao động).
Dù theo mô hình nào thì một hệ thống phân luồng thành công luôn gắn liền với sự bảo đảm của các trụ cột chính: có hệ thống tư vấn hướng nghiệp chuyên nghiệp và hiệu quả, hỗ trợ học sinh đưa ra lựa chọn phù hợp; vị thế và chất lượng GDNN được nâng cao, có uy tín và được xã hội công nhận; có sự tham gia mạnh mẽ của doanh nghiệp trong hoạt động GDNN; cơ chế liên thông và cơ hội học tập suốt đời được bảo đảm; có sự thay đổi trong nhận thức xã hội về vị thế và vai trò của GDNN; ở nhiều quốc gia quy định phân luồng học sinh sau THCS và THPT không chỉ mang tính định hướng mà có kèm theo cơ chế ràng buộc.
Theo ông Tiến, nếu đối chiếu với các bài học thành công trong phân luồng giáo dục thế giới thì rõ ràng là thể chế, chính sách phân luồng của Việt Nam đã tính đến mọi vấn đề có liên quan, từ nâng cao nhận thức xã hội đến các giải pháp, chính sách trước phân luồng, trong phân luồng và sau phân luồng.
"Tuy nhiên, thể chế, chính sách phân luồng giáo dục của chúng ta còn yếu kém về hiệu lực, hiệu quả", ông Tiến nói và lý giải cụ thể như sau:
Một là, dù Luật GDNN 2014 và sau này Luật Giáo dục 2019 có quy định về hệ thống giáo dục mở, linh hoạt, liên thông, nhưng cho đến nay việc xây dựng hệ thống GDNN mở, linh hoạt và liên thông về cơ bản vẫn nằm lại trên văn bản.
Hai là, nhiều chính sách được xây dựng mang tính khát vọng, thiếu bằng chứng cần thiết. Ví dụ, mục tiêu đến năm 2025 đạt tỷ lệ phân luồng 40% học sinh tốt nghiệp THCS vào GDNN rõ ràng là áp đặt, duy ý chí.
Ba là, do sự phân mảnh kéo dài trong quản lý nhà nước về giáo dục và GDNN, nên cơ chế phối hợp giữa Bộ GD-ĐT và Bộ LĐ-TB,XH còn mang tính hình thức, thậm chí xung đột trong cách nhìn nhận, tiếp cận và giải quyết nhiều vấn đề nẩy sinh.
Bốn là, việc tổ chức thực hiện chính sách phân luồng đối mặt với nhiều bất cập về nguồn lực, năng lực, phân cấp, phân quyền. Đặc biệt, sự thiếu vắng cơ chế phân định trách nhiệm, giám sát, đánh giá và coi nhẹ trách nhiệm giải trình khiến chính sách không được thực hiện đến nơi đến chốn.
Năm là, các quy định về phân luồng chỉ mang tính khuyến khích, không có cơ chế ràng buộc. Với xu hướng mở rộng luồng THPT hiện đang trở nên thịnh hành, thì bài toán phân luồng tiếp tục khó có lời giải khả thi.
Cần đột phá từ phân cấp, phân quyền, đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật
Kết luận 91-KL/TW ngày 12/08/2024 của Bộ Chính trị yêu cầu: “đẩy mạnh phân luồng, tăng số lượng học sinh sau THCS, THPT vào Giáo dục nghề nghiệp”, để thực hiện, Chính phủ đã ban hành Chương trình hành động theo Nghị quyết 51/NQ-CP ngày 18/03/2025, và Bộ GD-ĐT đang xây dựng dự thảo Nghị định về hướng nghiệp và phân luồng.
TSKH. Phạm Đỗ Nhật Tiến cho biết, cách tiếp cận trong Dự thảo Nghị định này có phần mềm dẻo, linh hoạt hơn, nhưng vẫn chỉ khu trú trong giải pháp chính sách về giáo dục hướng nghiệp giống như trước đây.
Vì vậy, để tháo gỡ những hạn chế về hiệu lực, hiệu quả của thể chế, chính sách trong phân luồng giáo dục nước ta, TSKH. Phạm Đỗ Nhật Tiến cho rằng, cần một tiếp cận toàn diện hơn, khai thác tốt hơn những cơ hội mới được mở ra trong bối cảnh mới được đặc trưng bởi 4 nghị quyết đột phá của Bộ Chính trị với tư cách là bộ tứ trụ cột thể chế nền tảng, tạo động lực mạnh mẽ đưa đất nước ta tiến lên trong kỷ nguyên mới.
Một tiết học tại Trường Trung cấp nghề số 1 Hà Nội. Ảnh: Ngọc Minh
Thứ nhất, cần hoàn thiện cơ chế, chính sách tạo hành lang pháp lý đầy đủ, đồng bộ trong phân luồng giáo dục. Việc này liên quan đến sửa đổi một số điều của Luật Giáo dục và xây dựng Luật GDĐH (sửa đổi), Luật GDNN (sửa đổi). Cụ thể:
Bổ sung định hướng chính sách cụ thể về phân luồng vào Luật Giáo dục: Cần bổ sung một khoản vào Điều 9 (Hướng nghiệp và phân luồng trong giáo dục) của Luật Giáo dục nhằm thể chế hóa yêu cầu của Kết luận 91. Khoản này cần quy định rõ: “Nhà nước có chính sách trước phân luồng, trong phân luồng và sau phân luồng, tạo cơ hội, điều kiện, động lực và niềm tin để học sinh theo học GDNN”. Điều này sẽ tạo cơ sở pháp lý vững chắc cho các chính sách hỗ trợ người học GDNN phát triển sự nghiệp lâu dài.
Quy định lại cấu trúc hệ thống giáo dục quốc dân: Các dự thảo luật hiện nay vẫn dẫn tới hình ảnh một hệ thống giáo dục cứng nhắc, không phù hợp với xu thế “đại học hóa GDNN” và “nghề nghiệp hóa GDĐH”. Do đó, cần xem xét quy định rằng GDNN bao gồm các trình độ đào tạo sơ cấp, trung cấp, cao đẳng, đại học; còn GDĐH bao gồm các trình độ đào tạo cao đẳng, đại học, thạc sĩ, tiến sĩ. Quy định này không chỉ phản ánh đúng sự tiến hóa của GDNN mà còn nâng cao vị thế của GDNN trong hệ thống giáo dục quốc dân, góp phần khắc phục tâm lý kỳ thị GDNN trong xã hội.
Ngoài ra, chuyển các cơ sở GDNN của bộ, ngành về địa phương quản lý: Theo tinh thần Nghị quyết 19 về nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập, theo đó, “Về cơ bản, trên địa bàn cấp tỉnh chỉ còn một đầu mối đào tạo nghề công lập”, cần mạnh dạn có chính sách chuyển các cơ sở GDNN của các bộ, ngành về thuộc quyền quản lý trực tiếp của cấp tỉnh. Trên cơ sở đó, sáp nhập các trung tâm dạy nghề, trường trung cấp, trường cao đẳng trên địa bàn tỉnh thành một hoặc vài trường cao đẳng cộng đồng, đáp ứng nhu cầu nhân lực của địa phương.
Giải pháp này, dù có thể đụng chạm đến lợi ích của các bộ, ngành, nhưng xét trên lợi ích quốc gia, đây là giải pháp đột phá để giải bài toán phân luồng. Nội dung này có thể đưa thành một khoản trong Điều 8 (Quy hoạch mạng lưới các cơ sở GDNN) của Luật GDNN sửa đổi.
Cùng với đó, đẩy mạnh phân cấp, phân quyền, nâng cao thẩm quyền và tính tự chủ, sáng tạo của chính quyền địa phương với tinh thần địa phương quyết, địa phương làm, địa phương chịu trách nhiệm
Hai là, chính quyền trung ương cần tập trung xây dựng thể chế, chính sách phân luồng giáo dục, đồng thời nâng cao thẩm quyền và tính tự chủ, sáng tạo của chính quyền địa phương. Cụ thể:
Chính phủ ban hành Nghị định “Đẩy mạnh phân luồng, tăng số lượng học sinh sau THCS, THPT vào GDNN”: Nghị định này nhằm thể chế hóa yêu cầu về phân luồng giáo dục được quy định trong Kết luận 91 của Bộ Chính trị, quy định các nhiệm vụ, giải pháp thực hiện phân luồng giáo dục trong một tiếp cận hệ thống bao gồm: nâng cao tính chuyên nghiệp, chất lượng và hiệu quả của giáo dục hướng nghiệp trong nhà trường phổ thông; nâng cao khả năng tìm việc làm và tạo việc làm cho người học sau khi tốt nghiệp các trình độ đào tạo của GDNN; nâng cao khả năng dịch chuyển của người học GDNN giữa các trình độ đào tạo, giữa các phương thức đào tạo, giữa các loại hình đào tạo trong hệ thống giáo dục quốc dân, cũng như giữa nhà trường và thị trường lao động.
Chính phủ ban hành Nghị định quy định phân cấp, phân quyền trong công tác phân luồng giáo dục: Theo hướng Bộ GD-ĐT chịu trách nhiệm về các giải pháp chính sách trong việc nâng cao chất lượng và hiệu quả của giáo dục hướng nghiệp, GDNN, giáo dục thường xuyên; Bộ Tài chính hướng dẫn các Bộ, ngành và Ủy ban nhân dân cấp tỉnh dự báo xác định cơ cấu nhân lực theo trình độ và ngành nghề trong quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của cả nước, từng vùng và địa phương; Bộ Nội vụ hoàn thiện cơ sở dữ liệu về thị trường việc làm; Ủy ban nhân dân tỉnh có trách nhiệm dự báo và công bố công khai về nhu cầu sử dụng nhân lực trong kế hoạch hằng năm, năm năm của địa phương; xây dựng chính sách cụ thể nhằm gắn đào tạo với sử dụng, chỉ đạo cơ quan quản lý giáo dục ở địa phương thực hiện có chất lượng và hiệu quả phân luồng trong giáo dục.
Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án “Xây dựng hệ thống giáo dục mở, linh hoạt, liên thông” nhằm mục đích gỡ bỏ các rào cản để học sinh sau THCS, THPT yên tâm và tin tưởng theo học GDNN. Trên cơ sở làm rõ các khái niệm “mở”, “linh hoạt”, “liên thông”, Đề án này sẽ quy định các nhiệm vụ, giải pháp về đổi mới chương trình giáo dục, tài nguyên giáo dục, cách dạy, cách học, cách đánh giá, tích lũy và chuyển đổi tín chỉ để tạo điều kiện cho người học sau khi đã đi vào luồng nghề nghiệp vẫn có trước mắt mình những cơ hội rộng mở để chuyển đổi ngành nghề, phát triển sự nghiệp và thăng tiến theo sở thích, nguyện vọng, năng lực và điều kiện cụ thể của cá nhân.
Căn cứ vào các văn bản trên, Bộ GD-ĐT ban hành thông tư quy định phân cấp, phân định thẩm quyền quản lý nhà nước trong phân luồng giáo dục theo hướng tăng cường thẩm quyền và trách nhiệm của UBND cấp tỉnh trong việc xác định tỷ lệ và giải pháp phân luồng học sinh sau THCS, THPT theo học GDNN căn cứ vào nhu cầu nhân lực theo ngành nghề và trình độ đào tạo trong kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội của địa phương, tổ chức thực hiện, giám sát, đánh giá và giải trình.
Minh Vân (ghi)
Nguồn Đại Biểu Nhân Dân : https://daibieunhandan.vn/giai-bai-toan-phan-luong-giao-duc-trong-boi-canh-moi-10381457.html