Giải mã bài toán ô nhiễm ven biển Nam Bộ

Giải mã bài toán ô nhiễm ven biển Nam Bộ
2 giờ trướcBài gốc
Sơ đồ cơ chế truyền tải, tích tụ và phát tán các nguồn ô nhiễm ven biển từ Vũng Tàu đến Kiên Giang. (Ảnh: TL)
Tạo nền tảng bảo vệ môi trường biển
Bộ Khoa học và Công nghệ vừa tổ chức nghiệm thu đề tài quốc gia “Nghiên cứu cơ chế truyền tải, tích tụ và phân tán chất ô nhiễm vùng biển ven bờ từ Vũng Tàu đến Kiên Giang”. Đề tài do Phân hiệu Trường đại học Thủy lợi tại Bình Dương chủ trì trong khuôn khổ Chương trình phát triển khoa học cơ bản trong lĩnh vực hóa học, khoa học sự sống, khoa học Trái đất và khoa học biển giai đoạn 2017-2025. Nhóm nghiên cứu do Phó Giáo sư, Tiến sĩ Triệu Ánh Ngọc đứng đầu đã ứng dụng công nghệ đồng vị bền để phân tích nguồn gốc, cơ chế lan truyền và tích tụ các chất ô nhiễm trong môi trường nước, trầm tích và sinh vật vùng ven biển.
Theo đánh giá, những năm qua vùng biển ven bờ từ Vũng Tàu đến Kiên Giang vừa là trung tâm phát triển kinh tế-xã hội, vừa là nơi hội tụ các hệ sinh thái quan trọng của Đồng bằng sông Cửu Long. Tuy nhiên, khu vực này đang chịu áp lực ô nhiễm gia tăng từ nông nghiệp thâm canh, nuôi trồng thủy sản, công nghiệp và đô thị hóa, với các chất dinh dưỡng (N, P) và kim loại nặng (chì, kẽm, đồng) ngày càng tích tụ trong nước và trầm tích. Suy giảm chất lượng môi trường biển đang đe dọa rừng ngập mặn, đầm phá, rạn san hô và ảnh hưởng trực tiếp đến sinh kế, sức khỏe hàng triệu người dân. Ngoài nguồn thải tại chỗ, khu vực còn tiếp nhận ô nhiễm từ thượng nguồn qua hệ thống sông Mê Kông và Đồng Nai.
Đặc biệt, trong bối cảnh biến đổi khí hậu, mưa lũ cực đoan, hạn mặn và nước biển dâng làm cơ chế vận chuyển, lắng đọng chất ô nhiễm trở nên phức tạp hơn, dễ dẫn đến phú dưỡng, thủy triều đỏ hoặc tích tụ kim loại nặng theo mùa. Thực tế đó đòi hỏi phải xác định rõ nguồn phát thải, đường đi và mức độ tích tụ ô nhiễm để đánh giá rủi ro dài hạn. Đề tài “Nghiên cứu cơ chế truyền tải, tích tụ và phân tán chất ô nhiễm vùng biển ven bờ từ Vũng Tàu tới Kiên Giang” do Phó Giáo sư, Tiến sĩ Triệu Ánh Ngọc chủ trì trong giai đoạn 2021-2025 đã đáp ứng yêu cầu của thực tiễn.
Đề tài áp dụng cách tiếp cận đa ngành, lần đầu kết hợp đồng bộ các phương pháp truyền thống và hiện đại tại Việt Nam nhằm “giải mã” bài toán ô nhiễm ven biển Nam Bộ. Bên cạnh công tác khảo sát thực địa, thu thập hàng trăm mẫu nước, trầm tích và sinh vật tại các cửa sông, vùng ven bờ và gần bờ, nhóm nghiên cứu đã sử dụng các kỹ thuật phân tích tối tân để truy tìm dấu vết nguồn gốc chất ô nhiễm, cùng với mô hình thủy động lực-chất lượng nước 3 chiều để mô phỏng quá trình lan truyền trong các kịch bản khác nhau.
Cùng với đó, công cụ toán MixSIAR (mô hình trộn Bayesian) được triển khai nhằm định lượng phần trăm đóng góp của từng nguồn ô nhiễm vào môi trường thông qua dữ liệu đồng vị. Đáng chú ý, kỹ thuật thủy văn đồng vị được áp dụng lần đầu cho vùng ven biển Việt Nam đã cho phép phân biệt tương đối rõ dấu hiệu ô nhiễm từ phân bón nông nghiệp, nước thải sinh hoạt hay chất thải công nghiệp dựa trên các giá trị đặc trưng. Cách tiếp cận liên ngành và tích hợp này tạo nên một khung nghiên cứu toàn diện, vừa có khả năng lượng hóa mức độ ô nhiễm, vừa truy nguyên được nguồn gốc và cơ chế lan truyền các chất ô nhiễm. Kết quả nghiên cứu đã phác họa chi tiết cơ chế truyền tải, phân tán và tích tụ các chất ô nhiễm tại vùng biển ven bờ Nam Bộ.
Nghiên cứu chỉ ra trầm tích giữ vai trò then chốt trong việc lưu giữ và tái phát tán chất ô nhiễm. Trầm tích lơ lửng và trầm tích đáy tại các cửa sông lớn hoạt động như “bể chứa tạm thời” của kim loại nặng. Phân tích GIS cho thấy Cửa Đại, Hàm Luông và Trần Đề có hàm lượng Fe, Pb, Zn cao nhất do phù sa từ thượng nguồn lắng đọng. Khi thủy triều mạnh, bão hoặc sóng lớn, kim loại bị khuấy trở lại cột nước, làm nồng độ kim loại ven bờ tăng đột biến - kể cả ở các điểm lấy mẫu xa bờ như Bến Tre hay Rạch Giá vào mùa khô. Trầm tích giàu chất hữu cơ trong đầm phá và rừng ngập mặn cũng có khả năng hấp thụ mạnh Hg ở dạng methyl hóa, khiến thủy ngân tích tụ lâu dài dưới đáy. Vì vậy, trầm tích đáy vừa giúp giảm ô nhiễm tức thời trong nước biển, vừa có thể trở thành nguồn phát tán thứ cấp khi điều kiện môi trường biến động.
Theo đánh giá của các chuyên gia, công trình nghiên cứu đã đóng góp những hiểu biết khoa học quan trọng, tạo nền tảng cho công tác bảo vệ môi trường biển Nam Bộ. Đề tài đã cung cấp bức tranh toàn diện đầu tiên về hiện trạng ô nhiễm và cơ chế lan truyền các chất dinh dưỡng, kim loại nặng ở vùng ven biển Vũng Tàu - Kiên Giang. Không chỉ định lượng mức độ ô nhiễm, nghiên cứu còn truy xuất rõ ràng nguồn gốc các chất ô nhiễm chính: nông nghiệp và sinh hoạt là nguồn chủ đạo gây phú dưỡng, trong khi công nghiệp và trầm tích biển là tác nhân chính gây ô nhiễm kim loại.
Bộ Cơ sở dữ liệu Đồng bằng sông Cửu Long và hệ thống dự báo, cảnh báo chất lượng nước môi trường.
Việc lần đầu ứng dụng kỹ thuật đồng vị kết hợp mô hình Bayesian và mô hình thủy động lực học tại Việt Nam đã chứng minh hiệu quả trong phân biệt dấu vết ô nhiễm và định lượng đóng góp của nguồn thải - đây là đóng góp phương pháp có ý nghĩa cho lĩnh vực khoa học môi trường nước. Các kết quả nghiên cứu chuyên sâu không chỉ mang giá trị học thuật mà còn cung cấp bằng chứng thực tiễn để hoạch định chính sách quản lý.
Giảm thiểu ô nhiễm, bảo vệ bền vững vùng biển Nam Bộ
Để kết quả nghiên cứu được ứng dụng vào thực tiễn, nhóm tác giả đề xuất một loạt giải pháp giảm thiểu ô nhiễm và bảo vệ bền vững vùng biển Nam Bộ. Trước hết, cần xây dựng mạng lưới quan trắc liên tỉnh từ Vũng Tàu đến Kiên Giang, bố trí đủ điểm đo tại các khu vực nhạy cảm như cửa sông, vùng nuôi thủy sản và khu công nghiệp. Mạng lưới này nên kết hợp cảm biến tự động theo dõi chất lượng nước theo thời gian thực và hệ thống cảnh báo sớm khi xuất hiện tín hiệu bất thường.
Song song đó, nhóm nghiên cứu nhấn mạnh yêu cầu nâng cấp công nghệ xử lý nước thải tại các đô thị và khu công nghiệp lớn ở Đồng bằng sông Cửu Long, tập trung vào khử dinh dưỡng N, P và loại bỏ kim loại nặng, vi nhựa và hóa chất hữu cơ bền vững trước khi xả thải.
Về dài hạn, khu vực ven biển Nam Bộ cần được quản lý theo mô hình quản lý tổng hợp vùng bờ (ICZM), bảo đảm phối hợp liên ngành và liên tỉnh trong kiểm soát nguồn thải, quy hoạch sử dụng đất và bảo vệ các hệ sinh thái đệm, đặc biệt là rừng ngập mặn ở Bạc Liêu và Cà Mau. Cuối cùng, sự tham gia của cộng đồng giữ vai trò thiết yếu nâng cao nhận thức, thúc đẩy nông nghiệp hữu cơ, giảm rác thải nhựa và tăng cường giám sát độc lập nguồn xả thải sẽ giúp các giải pháp kỹ thuật phát huy hiệu quả lâu dài.
Có thể khẳng định, sau chặng đường nghiên cứu hơn 3 năm, đề tài đã thu được những kết quả có giá trị cả về khoa học và thực tiễn. Những phát hiện mới về cơ chế lan truyền, tích tụ ô nhiễm ở vùng biển Nam Bộ không chỉ góp phần lấp đầy khoảng trống hiểu biết, mà còn là cơ sở khoa học để các nhà quản lý địa phương hoạch định chiến lược bảo vệ môi trường biển phù hợp. Quan trọng hơn, nghiên cứu gióng lên hồi chuông cảnh tỉnh về mối nguy ô nhiễm đang hiện hữu, qua đó thúc đẩy hành động kịp thời nhằm giữ gìn dải ven biển giàu tài nguyên của đất nước.
Với cách tiếp cận liên ngành và những dữ liệu nền quý giá, đề tài có thể xem là mô hình để áp dụng nghiên cứu các vùng ven biển khác của Việt Nam đang chịu áp lực ô nhiễm tương tự, đóng góp vào mục tiêu phát triển bền vững kinh tế biển trong bối cảnh biến đổi khí hậu ngày càng rõ nét.
BÍCH LIÊN
Nguồn Nhân Dân : https://nhandan.vn/giai-ma-bai-toan-o-nhiem-ven-bien-nam-bo-post924971.html