Giải mã chuyện hơn 30.000 doanh nghiệp chia tay thị trường

Giải mã chuyện hơn 30.000 doanh nghiệp chia tay thị trường
8 giờ trướcBài gốc
Chỉ còn chưa đầy hai tuần nữa là kết thúc năm 2025, số liệu từ Cục Thống kê cho thấy làn sóng doanh nghiệp (DN) rời thị trường chưa có dấu hiệu hạ nhiệt, bình quân mỗi tháng có 18.700 DN rút lui. Cụ thể, trong 11 tháng qua, cả nước có 110.100 DN tạm ngừng hoạt động, tăng 14,4%; 64.500 DN chờ giải thể, tăng 11,7% và 30.800 DN đã hoàn tất giải thể.
Liệu làn sóng này có đe dọa mục tiêu tăng trưởng và đâu là giải pháp cấp bách? Báo Pháp Luật TP.HCM đã trao đổi cùng PGS.TS Ngô Trí Long, chuyên gia kinh tế, để phân tích sâu hơn về hiện tượng này.
PGS.TS Ngô Trí Long, Chuyên gia Kinh tế. Ảnh: T.LONG
Sức chịu đựng tài chính của DN nhỏ và vừa còn hạn chế
- Phóng viên: Trong 11 tháng đầu năm, số liệu từ Cục Thống kê cho biết cả nước có 110.100 DN tạm ngừng hoạt động, tăng 14,4%. Từ số liệu này, ông đánh giá thế nào về “sức khỏe” DN hiện nay?
+ TS Ngô Trí Long: Nhìn chung sức khỏe DN hiện nay là bức tranh phục hồi nhưng còn yếu và phân hóa mạnh. Tổng số DN thành lập mới và quay lại hoạt động đạt khoảng 275.600, bình quân 25.100 DN/tháng, điều này cho thấy thị trường vẫn năng động. Tuy nhiên, tỉ lệ rút lui cao phản ánh sức chịu đựng tài chính và năng lực thích ứng của một bộ phận DN, nhất là nhóm DN nhỏ và vừa, còn rất hạn chế.
Tín hiệu đáng lo nhất ở DN "giải thể tăng rất mạnh", nhóm hoàn tất thủ tục giải thể tăng tới 60,1% (khác hoàn toàn với việc tạm ngừng để chờ thời). Tình trạng này thường gắn với khó khăn dòng tiền, thiếu đơn hàng ổn định, gánh nặng chi phí đầu vào và tuân thủ khiến DN không đủ lực duy trì.
- Phân theo lĩnh vực, bán buôn – bán lẻ, sửa chữa ô tô, xe máy đang đứng đầu về số lượng rời thị trường với 11.296 DN. Theo ông đâu là nguyên nhân lớn nhất?
+ Nhóm bán lẻ đang chịu áp lực lớn nhất thị trường hiện nay. Số liệu 11 tháng năm 2025 cho thấy nhóm này có số lượng DN giải thể tăng 44,3%, do quy mô DN trong ngành rất lớn nên mức thanh lọc tại đây thể hiện rõ nhất.
Có năm nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng này: Thứ nhất, sự cạnh tranh bị tái định giá bởi thương mại điện tử (TMĐT). Các kênh trực tuyến mở rộng nhanh, đẩy cạnh tranh sang sự minh bạch giá theo thời gian thực. Cửa hàng truyền thống phải giảm giá, khuyến mãi liên tục trong khi chi phí vận hành không giảm tương ứng. Riêng năm 2024, VECOM ước tính quy mô TMĐT đạt khoảng 32 tỉ USD, tăng 27%, trong đó bán lẻ hàng hóa trực tuyến tăng mạnh.
Thứ hai, biên lợi nhuận vốn mỏng của ngành bán lẻ bị bào mòn bởi cuộc đua khuyến mãi khi giá là vũ khí. Lợi nhuận chuyển sang tay các DN có quy mô, dữ liệu khách hàng và năng lực chuỗi cung ứng. Nhóm cửa hàng nhỏ lẻ khó chịu nổi các đợt "đốt tiền" theo mùa.
Thứ ba là vấn đề mặt bằng, chi phí cố định tăng hoặc neo cao trong bối cảnh doanh thu biến động. Thị trường mặt bằng bán lẻ ghi nhận mức giá thuê tăng ở nhiều khu vực tùy vị trí, trong khi tỉ lệ lấp đầy cao làm giảm khả năng thương lượng của bên thuê.
Thứ tư, áp lực về chi phí vốn và vốn lưu động, ngành bán lẻ cần dòng tiền quay vòng nhanh. Chỉ cần sức mua chậm lại vài tháng là tồn kho tăng, chi phí tài chính tăng, kéo theo đứt dòng tiền. Tình trạng này xảy ra nhiều nhất ở các cửa hàng vừa và nhỏ.
Cuối cùng, mảng sửa chữa ô tô, xe máy cũng chịu tác động kép. Sức mua xe và chi tiêu bảo dưỡng có tính chu kỳ. Hành vi khách hàng dịch chuyển sang chuỗi dịch vụ hoặc garage có thương hiệu, đặt lịch số hóa, minh bạch giá. Ngoài ra, chi phí thuê mặt bằng, nhân công tay nghề cao tăng làm mô hình nhỏ lẻ khó cạnh tranh.
Điểm cần nhấn mạnh là dù áp lực lớn, ngành này vẫn có 75.606 DN thành lập mới tăng 26,1%. Điều này nghĩa là thị trường không phải "suy sụp" mà là tái cấu trúc rất mạnh, DN yếu rời đi và DN thích nghi tốt, tối ưu chi phí và chuyên môn hóa sẽ trụ lại, mở rộng.
Khách hàng dịch chuyển sang chuỗi dịch vụ hoặc garage có thương hiệu khi chọn dịch vụ sửa chữa xe máy. Ảnh: TÚ UYÊN
Rủi ro cho "đầu kéo" tiêu dùng nội địa
- Việc hơn 11.000 DN nhóm bán lẻ rời thị trường tác động như thế nào tới tổng mức bán lẻ và tiêu dùng nội địa và chỉ tiêu then chốt đóng góp vào tăng trưởng, thưa ông?
+ Có thể thấy nó tác động tới tiêu dùng theo ba kênh chính:
Kênh thứ nhất: độ phủ điểm bán, điểm dịch vụ giảm. Cửa hàng, đại lý, gara nhỏ đóng cửa làm giảm tính thuận tiện, tăng chi phí thời gian, di chuyển. Người dân sẽ có xu hướng trì hoãn một phần chi tiêu hoặc chuyển sang kênh khác nhưng với "ma sát" cao hơn.
Kênh thứ hai: ảnh hưởng đến việc làm và thu nhập. Bán lẻ và dịch vụ sửa chữa là nhóm sử dụng nhiều lao động. Khi DN rút lui, thu nhập của một bộ phận hộ gia đình giảm hoặc kém ổn định. Khi thu nhập yếu đi thì tiêu dùng sẽ mỏng ngay, nhất là nhóm chi tiêu không thiết yếu.
Kênh thứ ba: rủi ro tăng tập trung thị trường, sức bán có thể dồn về chuỗi lớn, TMĐT nên tổng bán lẻ chưa chắc giảm ngay. Nhưng hệ sinh thái cạnh tranh mỏng đi, chi phí dịch vụ có thể tăng cục bộ, khiến người dân co lại các khoản chi khác.
Mặt khác, báo cáo 11 tháng năm 2025 cho thấy tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng ước đạt 6.377,7 ngàn tỉ đồng, tăng 9,1% so với cùng kỳ. Nghĩa là tiêu dùng vẫn tăng, nhưng đáng chú ý là tăng trưởng “thực” mới phản ánh sức mua bền vững.
Theo báo cáo chính thức mới nhất về cấu phần tăng trưởng (đến 9 tháng 2025), tiêu dùng cuối cùng tăng 8,07% và đóng góp 73,83% vào tăng trưởng theo góc độ sử dụng.
Nói cách khác, tiêu dùng là động lực lớn nhất của tăng trưởng. Vì vậy, nếu làn sóng DN rời thị trường tiếp tục làm đà tăng tiêu dùng thực suy yếu trong những tháng tới thì tăng trưởng GDP sẽ chịu tác động rất rõ.
Mặt bằng tại chợ sỉ Tân Bình đang tìm khách thuê. Ảnh: TÚ UYÊN
- Như ông phân tích, liệu khu vực DN nhỏ và vừa còn khả năng đóng góp tích cực vào tăng trưởng và thu ngân sách năm 2025?
+ Câu trả lời là có, nhưng sự đóng góp này sẽ mang tính chọn lọc và phân hóa mạnh. Khối DN nhỏ và vừa vẫn là nền móng, chiếm gần 98% số DN đang hoạt động. Tuy nhiên, áp lực chi phí và cạnh tranh số đang làm co biên lợi nhuận, kéo giảm sức đóng góp ngắn hạn của một bộ phận DN.
Dữ liệu 11 tháng năm 2025 cho thấy độ mong manh của khối này tăng lên. Điều này sẽ ăn mòn đóng góp vào tăng trưởng và thu ngân sách ở nhóm biên lợi nhuận thấp như bán lẻ truyền thống, dịch vụ nhỏ lẻ. Tuy vậy, DN nhỏ và vừa vẫn còn dư địa đóng góp tăng trưởng nếu dịch chuyển mô hình kinh doanh.
Nhóm này có lợi thế linh hoạt nhưng điểm nghẽn là mỏng vốn. Tổng nguồn vốn của khối này đạt khoảng 16,6 triệu tỉ đồng, chưa đến 30% tổng vốn hoạt động khu vực doanh nghiệp. Dư nợ tín dụng cho họ năm 2024 chỉ khoảng 17,6%.
Khi chi phí mặt bằng và hàng hóa tăng, nhóm nào không chuyển được sang đa kênh, tối ưu tồn kho và quản trị dòng tiền sẽ giảm đóng góp rất nhanh.
Về thu ngân sách, sự đóng góp vẫn có nhưng rủi ro hụt thu nằm ở khu vực hộ kinh doanh, DN siêu nhỏ nếu chi phí tuân thủ tăng. Khu vực DN nhỏ và vừa cùng kinh tế tư nhân thường đóng góp đáng kể vào nền kinh tế, ví dụ hơn 50% GDP và khoảng 30% tổng thu ngân sách.
Tuy nhiên, điều quan trọng năm 2025 là chất lượng tuân thủ và khả năng lớn lên của DN. Những đơn vị chuyển đổi thành công sang chuẩn hóa hóa đơn, sổ sách, bán hàng số và quản trị dữ liệu sẽ đóng góp ổn định hơn. Nhóm còn lại dễ rụng khỏi khu vực chính thức.
Nhiều mặt bằng treo bảng cho thuê. Ảnh: TÚ UYÊN
Cấp cứu dòng tiền cho doanh nghiệp để bảo vệ tăng trưởng
- Vậy theo ông, để đảm bảo mục tiêu tăng trưởng 2025 không bị ảnh hưởng tiêu cực, Chính phủ cần ưu tiên gì nhất lúc này?
+ Để bảo vệ mục tiêu tăng trưởng 2025, ưu tiên nhất hiện nay là giữ mạch máu dòng tiền cho DN. Chính sách cần xoay quanh ba trụ cột là giảm áp lực chi phí và thủ tục, khơi thông tín dụng đúng địa chỉ, tạo đơn hàng và đầu ra (gồm đầu tư công, tiêu dùng, xuất khẩu). Mục tiêu là để DN có việc làm, có tiền về và có niềm tin.
Về giải pháp cấp bách, cần cấp cứu dòng tiền (thuế, phí, đất) theo cơ chế tự động, nhanh và đúng đối tượng. Cần mở rộng và đánh đúng huyệt các gói gia hạn, giãn nghĩa vụ tài chính, đặc biệt là VAT, thu nhập doanh nghiệp, tiền thuê đất. Điều này giúp DN có thêm vốn lưu động trong 3-6 tháng cao điểm. Với tín dụng, cần giảm rủi ro chứ không chỉ giảm lãi suất. Tín dụng đã tăng mạnh, quy mô trên 18,2 triệu tỉ đồng (đến 27-11-2025).
Vấn đề lớn là khả năng hấp thụ và điều kiện vay của DN nhỏ và vừa. Cần ưu tiên cơ chế bảo lãnh tín dụng, chấm điểm dòng tiền cho các ngành bán lẻ, dịch vụ, công nghiệp hỗ trợ. Các cơ quan cần rà soát, tạm thời cắt hoặc hoãn các yêu cầu chồng chéo như kiểm tra chuyên ngành, điều kiện kinh doanh phát sinh.
- Ông có thông điệp gì gửi đến cộng đồng doanh nghiệp trong bối cảnh này?
+ DN cần thương lượng lại mặt bằng, nhà cung cấp, giảm hàng tồn và quay vòng vốn nhanh. Ngoài ra, cần chủ động minh bạch tài chính để tiếp cận vốn. Sổ sách chuẩn, hóa đơn đầy đủ, báo cáo dòng tiền rõ ràng sẽ giúp "vượt cửa" tín dụng khi ngân hàng siết rủi ro.
Trong giai đoạn khó khăn, DN thắng không phải vì lớn hơn mà vì linh hoạt hơn. Hãy tập trung vào sản phẩm, dịch vụ có biên lợi nhuận và tệp khách hàng trung thành.
- Xin cảm ơn ông!
2025-2030: Không để tình trạng DN tạm ngừng chuyển thành rút lui vĩnh viễn
Bức tranh thị trường cần được nhìn nhận ở cả hai chiều. 11 tháng năm 2025, tổng số DN thành lập mới và quay trở lại hoạt động đạt 275.600 đơn vị tăng 26,1% so cùng kỳ, trong đó có 97.600 DN quay trở lại tăng 36,9%. Số liệu này chứng minh khu vực tư nhân vẫn còn năng lực tái khởi động và phản ứng linh hoạt khi có cơ hội.
Điểm mấu chốt giai đoạn 2025-2030 là không để tình trạng DN tạm ngừng chuyển thành rút lui vĩnh viễn. Tín hiệu cảnh báo là có, nhưng động lực tư nhân sẽ được khôi phục nếu chính sách đánh trúng chi phí sống còn của DN nhỏ và vừa. Cụ thể là giảm chi phí tuân thủ, hỗ trợ tiếp cận vốn theo dòng tiền và hạ chi phí đầu vào. Khi chi phí cố định được kéo xuống, nhóm tạm ngừng sẽ có xu hướng quay lại nhanh, đúng với đà tăng của số liệu quay lại hoạt động hiện nay.
PGS.TS Ngô Trí Long, Chuyên gia Kinh tế
TÚ UYÊN
Nguồn PLO : https://plo.vn/video/giai-ma-chuyen-hon-30000-doanh-nghiep-chia-tay-thi-truong-post886361.html