Giải mật quanh vũ khí hạt nhân: Thân thế ly kỳ của nhà khoa học bí ẩn

Giải mật quanh vũ khí hạt nhân: Thân thế ly kỳ của nhà khoa học bí ẩn
14 giờ trướcBài gốc
Tập đoàn công nghệ hạt nhân Rosatom của Nga đã công bố một loạt tài liệu giải mật mới liên quan đến sự khởi đầu phát triển ngành công nghiệp hạt nhân ở Liên Xô. (Nguồn: Bundesarchiv)
Gần đây, Tập đoàn công nghệ hạt nhân Rosatom của Nga đã công bố một loạt tài liệu giải mật mới liên quan đến sự khởi đầu phát triển ngành công nghiệp hạt nhân ở Liên Xô.
Sau hơn bảy thập niên, Rosatom đã công bố hồ sơ của những chuyên gia người Đức đầu tiên làm việc trong quá trình phát triển vũ khí nguyên tử dưới thời trùm phát xít Adolf Hitler và sau đó giúp các nhà khoa học Liên Xô chế tạo bom nguyên tử.
Trong số các tài liệu được công bố có sáu nhà vật lý người Đức từng đoạt giải Nobel (vì đã khám phá ra các định luật va chạm electron-nguyên tử): Gustav Hertz, Nikolaus Riehl, Manfred von Ardenne, Peter Thiessen, Heinz Pose và Georg Robert Döpel.
Sau khi hoàn thành dự án, nhiều nhà khoa học được quay trở lại quê hương và tiếp tục sự nghiệp sau khi cam kết giữ bí mật trong ít nhất 25 năm.
Các nhà vật lý kể trên đã bị đưa khỏi nước Đức vào năm 1945, ngay sau khi Ủy ban Đặc biệt về Sử dụng Năng lượng Nguyên tử được thành lập tại Liên Xô vào ngày 20/8/1945, theo quyết định của Joseph Stalin.
Ủy ban này do Lavrenty Pavlovich Beria đứng đầu.
Tính đến tháng 7/1948, có 324 chuyên gia Đức tham gia vào dự án nguyên tử của Liên Xô, trong đó có 216 người là tù nhân chiến tranh.
Trong tổng số chuyên gia người Đức, có khoảng 50 người là giáo sư và tiến sỹ khoa học, phần lớn làm việc theo hợp đồng.
Đến cuối năm 1946, Liên Xô thành lập Trung tâm hạt nhân thống nhất đầu tiên mang tên Arzamas-16 tại vùng Nizhny Novgorod.
Năm 1947, với sự giúp đỡ của các nhà khoa học Đức được liệt kê ở trên, Liên Xô đã tạo ra lò phản ứng hạt nhân đầu tiên và hai năm sau đã thử nghiệm bom nguyên tử RDS-1 tại một địa điểm thử nghiệm ở vùng Semipalatinsk (Kazakhstan ngày nay).
Tất cả những sự thật nêu trên đều được nhiều người biết đến. Tuy nhiên, các nhà quan sát lưu ý đến hai điểm từ những tài liệu mới được công bố: thứ nhất, các nhà vật lý Đức đã rời khỏi Đức không phải sau khi thành lập Ủy ban về dự án nguyên tử mà là hai tháng trước đó.
Thứ hai, một trong những người đóng vai trò quan trọng nhất trong chương trình chế tạo vũ khí nguyên tử của Liên Xô không chính là một người Đức sinh ra tại Nga có tên Nikolaus Riehl (1901-1990).
Trong tài liệu mới công bố có rất nhiều tình tiết bất ngờ và trùng hợp trong tiểu sử của người đàn ông này đến nỗi đủ để viết một tiểu thuyết trinh thám.
Nikolaus Riehl sinh ra tại St. Petersburg vào ngày 5/12/1901, trong một gia đình có dòng máu Đức-Do Thái.
Cha ông là Wilhelm Riehl (1867-1933), sinh ra ở Hamburg, làm kỹ sư tại công ty kỹ thuật điện Siemens und Halske ở St. Petersburg từ năm 1884 đến năm 1917.
Mẹ ông là Elena Kagan (1872-1927), xuất thân từ một gia đình bác sỹ Do Thái, đã cải sang đạo Thiên chúa sau khi kết hôn. Theo dữ liệu từ sổ rửa tội, cậu bé nhà Riehl mới sinh đã được "rửa tội vào ngày 3/6 tại Nhà thờ Hoàng tử Vladimir" và được đặt tên là Nikolai trong buổi lễ này.
Tại sao ông được rửa tội không phải vào ngày thứ 40 như phong tục ở Nga mà là rất lâu sau đó, thì lịch sử vẫn im lặng.
Khi còn nhỏ, Nikolai Riehl, giống như nhiều đứa trẻ khác ở St. Petersburg xuất thân từ các gia đình Đức, đã theo học tại trường Petrischule nổi tiếng của Đức, nơi ông tốt nghiệp vào năm 1919.
Từ năm 1920 đến năm 1926, ông học tại Học viện Bách khoa Petrograd của Hoàng đế Peter Đại đế (sau này là Học viện Bách khoa Leningrad được đặt theo tên của M.I. Kalinin). Tiếp sau đó bắt đầu những gì chúng ta gọi là những bước ngoặt đáng kinh ngạc trong số phận của nhà khoa học tương lai.
Theo các tài liệu, trong khuôn khổ hợp tác Đức-Xô, Nikolai (trong các tài liệu tên ông là Nikolaus) đã được chọn cử đi học vật lý và hóa học hạt nhân trong nhiều học kỳ ở Berlin, tại trường đại học mang tên Vua Phổ Friedrich Wilhelm III.
Các tài liệu không đề cập đến lý do tại sao chàng trai trẻ này được chọn và gửi đi du học ở Đức. Hay là vì vào cuối Thế chiến thứ nhất, cả mẹ và cha đều chuyển đến Đức? Hay việc Nikolaus nói lưu loát tiếng Nga và tiếng Đức có đóng vai trò gì không? Nhiều khả năng, câu trả lời nằm trong các tài liệu khác chưa được tiết lộ của cơ quan tình báo Nga.
Dù vậy, vào năm 1927, Nikolaus đã bảo vệ luận án tiến sỹ về hóa học phóng xạ tại Viện Nghiên cứu Văn hóa ở Essen với chủ đề “Sử dụng máy đếm Müller-Geiger cho phép đo phổ bức xạ beta.”
Người hướng dẫn khoa học của ông là nhà vật lý hạt nhân người Do Thái Lise Meitner và nhà hóa học phóng xạ người Đức Otto Hahn (người đoạt giải Nobel Hóa học năm 1944).
Nhà khoa học Nikolaus Riehl.
Năm 1933, Nikolaus kết hôn với Lisa Przubula, 19 tuổi, con gái của nhà hóa học Franz Przubula và vợ ông là Agnes. Cùng lúc đó, con đường của Nikolaus Riehl giao nhau với nhà thám hiểm người Đức nổi tiếng, Nam tước Manfred von Ardenne đã nói ở trên.
Dưới thời Đức Quốc xã, ông giữ chức giáo sư và là một trong những nhân vật chủ chốt của Dự án Uranium Đức. Nikolaus Riehl bắt đầu làm việc trong phòng thí nghiệm của Manfred von Ardenne ở Lichterfelde, ngoại ô Berlin (ngày nay là biệt thự của Folke Bernadotte) vào năm 1933.
Cả Giáo sư Manfred von Ardenne và Nikolaus Riehl đều hợp tác với công ty Auer-Gesellschaft ở Berlin, chuyên giải quyết các vấn đề y tế. Công ty này quan tâm đến việc áp dụng các phương pháp xạ trị của Nikolaus Riehl vào mục đích điều trị. Những động cơ cao cả như vậy đã thúc đẩy Nikolaus Riehl nghiên cứu sâu hơn. Cũng vào thời điểm này, Riehl đã gặp một bác sỹ chuyên khoa X-quang khác, Giáo sư Karl Zimmer, người mà ông đã duy trì tình bạn trong suốt cuộc đời.
Trong lời tựa cho cuốn sách Mười năm trong lồng vàng, Riehl lưu ý: “Sau khi phát hiện ra phản ứng phân hạch urani, tôi thấy hứng thú hơn với việc nghiên cứu công nghệ sản xuất urani tinh khiết để phục vụ năng lượng hạt nhân, đặc biệt là vì công ty Auer-Gesellschaft đã có nhiều kinh nghiệm trong các lĩnh vực kỹ thuật hóa học tương tự.”
Nhà khoa học chia sẻ thêm: “Cuộc sống của tôi giống như một con lắc dao động giữa vật lý và hóa học, giữa khoa học và công nghệ, giữa tinh thần kinh doanh và nghiên cứu, đó là lý do tại sao đôi khi tôi tự gọi mình là “nhân viên cửa hàng bách hóa.
Sau khi luật thuần chủng Nuremberg được thông qua tại Đức, những kẻ phân biệt chủng tộc đã kiểm tra các viên chức chính phủ về nguồn gốc Do Thái cho đến tận thế hệ thứ ba. Nhưng vì lý do nào đó điều này không ảnh hưởng tới Nikolaus Riehl.
Trong cuốn sách được đề cập ở trên, chỉ có một cụm từ lọt ra: “Tôi nhớ rằng chỉ vài ngày sau Cách mạng Tháng Mười, lực lượng Chekist đối xử tốt với tôi, còn Gestapo thì nhìn tôi với ánh mắt khinh thường.”
Từ năm 1937, mục tiêu tài trợ khoa học đã thay đổi đáng kể. Họ đã định hướng lại theo các chương trình liên quan đến việc tăng cường khả năng chiến đấu của quân đội Đức và tạo ra các loại vũ khí mới.
Auer-Gesellschaft đã đồng ý tài trợ cho việc xây dựng một máy phát neutron nhanh. Máy phát điện như vậy đã được tạo ra với sự tham gia của Karl Zimmer, Nikolai Timofeev-Resovsky và Nikolaus Riehl tại Viện nghiên cứu não bộ Kaiser Wilhelm vào mùa hè năm 1939.
Khi lò phản ứng hạt nhân được xây dựng và bắt đầu thử nghiệm, quân đội Liên Xô đã tiến đến Berlin. Lò phản ứng phải được tháo dỡ và vận chuyển đến một địa điểm khác.
Tại sao người Đức không thể chế tạo vũ khí nguyên tử kịp thời? Chính nhà khoa học Nikolaus Riehl, một người ở tâm chấn của những sự kiện đó, đã cho câu trả lời rất thú vị: “Đôi khi có ý kiến cho rằng nhiều nhà khoa học Đức đã cố ý hoặc vô tình làm chậm quá trình này, thay vì giúp Đế chế Hitler tạo ra một loại vũ khí chết người như bom nguyên tử. Giải thích này không hoàn toàn sai, nhưng không có nghĩa là đầy đủ. Một nhà nghiên cứu có sự tò mò về khoa học hoặc hứng thú với đổi mới công nghệ khó có thể cưỡng lại sức hấp dẫn của một dự án như vậy. Với nhiều áp lực và sự hỗ trợ hơn từ chính phủ, người Đức có thể đã tiến xa hơn. Tôi tin rằng tiến độ chậm chạp của dự án uranium chủ yếu là do sự quan tâm tương đối yếu đối với dự án từ phía Hitler và người thân cận của ông ta...”
Sau đó, công cuộc “thu phục” các nhà khoa học nguyên tử ở Đức đã diễn ra như kế hoạch đã định.
Karl Zimmer là một trong những nhà vật lý người Đức đầu tiên bị Ủy ban Dân ủy Nội vụ (viết tắt NKVD: tương đương Bộ An ninh nội địa) của Liên Xô bắt giữ tại Berlin.
Ông buộc phải chỉ ra vị trí của Nikolaus Riehl ở Rheinsberg, nơi bố trí mới của nhà máy uranium nguyên chất mới được di dời.
Như chính Riehl nhớ lại một ngày nọ có hai người đàn ông mặc quân phục đại tá NKVD đến gặp ông.
Trên thực tế, như sau này ông biết, họ chính là hai nhà vật lý Liên Xô xuất sắc Lev Artsimovich (người sau này trở nên nổi tiếng với nghiên cứu trong lĩnh vực nhiệt hạch) và Georgy Flerov (đồng tác giả của khám phá về sự phân hạch tự phát, tức là không do bắt neutron) của urani.
Họ mời Riehl đến trụ sở lực lượng đồn trú của Liên Xô trong mười phút để trò chuyện.
Nikolaus Riehl viết trong hồi ký của mình: “Nhà vật lý học nổi tiếng Julius Khariton, người đội mũ quân đội rất lớn, trông đặc biệt buồn cười về mặt này. May mắn thay, ông có đôi tai nhô ra, và cái đầu hẹp, uyên bác của ông không bị che khuất dưới mũ. 10 phút hôm đó đã biến thành 10 năm.”
Nikolaus Riehl và nhân viên của ông lại được đưa đến trụ sở NKVD ở Berlin, và sau đó, vào đầu tháng Sáu năm 1945, họ được đưa đến Liên Xô cùng với các thiết bị từ nhà máy xử lý uranium để bắt đầu quá trình chế tạo vũ khí hạt nhân cho Liên Xô./.
(Vietnam+)
Nguồn VietnamPlus : https://www.vietnamplus.vn/giai-mat-quanh-vu-khi-hat-nhan-than-the-ly-ky-cua-nha-khoa-hoc-bi-an-post1035225.vnp