Một trong các bước quan trọng để hình thành trung tâm tài chính quốc tế là xây dựng mô hình giải quyết tranh chấp hiệu quả, đáp ứng yêu cầu thực tiễn...
Quốc hội và Chính phủ đã có chủ trương đúng đắn trong việc xây dựng cơ chế giải quyết tranh chấp riêng biệt cho Trung tâm Tài chính quốc tế đã nhận thấy được tinh thần cởi mở và phát triển cụ thể của các thiết chế giải quyết tranh chấp. Ảnh: LÊ VŨ
Trong đó, hai văn bản pháp lý quan trọng - dự thảo Luật Tòa án chuyên biệt tại Trung tâm Tài chính quốc tế (“Dự thảo Luật Tòa án chuyên biệt”)(1) và dự thảo Nghị định về Trung tâm Trọng tài quốc tế thuộc Trung tâm Tài chính quốc tế tại Việt Nam và việc áp dụng pháp luật, giải quyết tranh chấp tại Trung tâm Tài chính quốc tế (“Dự thảo Nghị định về Trung tâm Trọng tài quốc tế”)(2) - thể hiện sự đột phá trong cơ chế giải quyết tranh chấp. Những điểm tiến bộ này không chỉ khắc phục bất cập thực tiễn mà còn phù hợp thông lệ quốc tế, góp phần xây dựng môi trường pháp lý minh bạch, linh hoạt.
Quốc hội và Chính phủ đã có chủ trương đúng đắn trong việc xây dựng cơ chế giải quyết tranh chấp riêng biệt cho Trung tâm Tài chính quốc tế. Đây là việc làm cần thiết trong quá trình vận hành Trung tâm Tài chính quốc tế. Dù hiện tại các quy định chưa được ban hành nhưng đã nhận thấy được tinh thần cởi mở và phát triển cụ thể của các thiết chế giải quyết tranh chấp.
Những nội dung đáng chú ý trong các dự thảo về cơ chế giải quyết tranh chấp
Thẩm quyền xét xử
Thẩm quyền xét xử của Trung tâm Trọng tài quốc tế thuộc Trung tâm Tài chính quốc tế tại Việt Nam sẽ được mở rộng qua toàn bộ các tranh chấp khác nhau (chỉ loại trừ đối với tranh chấp về hành chính, và lĩnh vực thuộc thẩm quyền riêng biệt của tòa án, hoặc có thể là tranh chấp lao động)(3). Điểm sửa đổi này đang tương đồng với các trung tâm trọng tài quốc tế tại các trung tâm tài chính quốc tế như Hồng Kông, Frankfurt, New York, Abu Dhabi hay Trung tâm Trọng tài quốc tế Dubai.
Gần như tương tự về thẩm quyền xét xử của Trung tâm Trọng tài quốc tế thuộc Trung tâm Tài chính quốc tế tại Việt Nam, thẩm quyền của Tòa án chuyên biệt cũng bao gồm toàn bộ các lĩnh vực, trong đó có sự tham gia của ít nhất một bên là thành viên của Trung tâm Tài chính quốc tế(4). Điểm sửa đổi này đang tương đồng với thẩm quyền của tòa án tại Tòa án Thương mại quốc tế Singapore.
Như vậy, về thẩm quyền giải quyết tranh chấp của Trung tâm Trọng tài quốc tế và Tòa án chuyên biệt, đã có sự tương đồng về thẩm quyền xét xử với các trung tâm tài chính quốc tế khác và đảm bảo việc vận hành được thông suốt.
Luật áp dụng và ngôn ngữ linh hoạt
Đối với vấn đề luật áp dụng, Dự thảo Luật Tòa án chuyên biệt đang đề xuất hai phương án mang tính tiến bộ rất lớn, có thể nói đây là cuộc cách mạng trong lĩnh vực xét xử, đó là việc áp dụng pháp luật nước ngoài, án lệ nước ngoài, tập quán thương mại quốc tế; hoặc áp dụng hệ thống “thông luật”, trừ các tranh chấp liên quan bất động sản sẽ áp dụng luật của nước nơi có bất động sản(5). Dự thảo luật bổ sung Hội đồng Thẩm phán Tòa án Nhân dân Tối cao hướng dẫn áp dụng thông luật.
Các dự thảo luật và nghị định hiện nay thể hiện sự tiến bộ rõ nét trong việc xây dựng khung pháp lý cho Trung tâm Tài chính quốc tế, với trọng tâm là hiện đại hóa, quốc tế hóa và hiệu quả hóa giải quyết tranh chấp. Tuy nhiên, cần tiếp tục hoàn thiện các dự thảo để đảm bảo tính khả thi, tránh xung đột với hệ thống pháp luật hiện hành.
Trong khi đó, Trung tâm Trọng tài quốc tế không bị giới hạn về luật áp dụng, trừ việc xét xử này phải phù hợp với Quy chế hoạt động của Trung tâm Tài chính quốc tế, và đảm bảo không trái với Hiến pháp, và điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên.
Đặc biệt, Tòa án chuyên biệt sử dụng tiếng Anh làm ngôn ngữ chính, trong khi Trung tâm Trọng tài quốc tế có thể quy định tiếng Anh toàn bộ. Đây là đột phá so với Luật Tổ chức Tòa án Nhân dân 2014, giúp loại bỏ rào cản văn hóa - ngôn ngữ cho các bên tranh chấp quốc tế. Trong bối cảnh Việt Nam gia nhập CPTPP, EVFTA, việc này không chỉ nâng cao hiệu quả mà còn xây dựng lòng tin, khuyến khích đầu tư vào sản phẩm tài chính mới như tài sản số. Tuy nhiên, cần bổ sung cơ chế đào tạo thẩm phán/trọng tài viên song ngữ để tránh lệch lạc khi áp dụng án lệ nước ngoài, đảm bảo tính nhất quán với pháp luật Việt Nam.
Thẩm phán và trọng tài viên
Đáp ứng yêu cầu về thẩm quyền giải quyết tranh chấp và luật áp dụng, việc yêu cầu khuôn mẫu đối với đội ngũ thẩm phán và trọng tài viên trong nội địa có thể không đáp ứng yêu cầu thực tiễn, do đó Dự thảo Luật Tòa án chuyên biệt cho phép thẩm phán có thể là công dân Việt Nam hoặc người nước ngoài, và có cơ chế bảo vệ thẩm phán khi đồng ý rằng “Thẩm phán Tòa án chuyên biệt không phải chịu trách nhiệm về việc áp dụng pháp luật, quy định pháp luật nước ngoài trừ trường hợp có lỗi cố ý”(6). Trong khi đó, mở rộng đối tượng công dân Việt Nam làm thẩm phán, không chỉ dừng lại ở công chức nhà nước được đào tạo qua trường lớp tòa án mà còn bao gồm chuyên gia, luật sư, giảng viên đại học, nhà khoa học. Việc cho phép người ngoại quốc làm thẩm phán là điểm tiến bộ mang tính cách mạng. Điều này giải quyết bất cập thiếu chuyên gia tài chính sâu, tăng tính trung lập và chuyên môn.
Đặc biệt, Tòa án chuyên biệt được thiết kế với trình độ chuyên sâu về tài chính, thương mại và đầu tư quốc tế. Thẩm phán phải có kiến thức chuyên môn cao, bao gồm cả thẩm phán nước ngoài, được bổ nhiệm bởi Chủ tịch nước. Điều này tiến bộ hơn hẳn so với tiêu chuẩn thẩm phán hiện hành, vốn chủ yếu dựa trên kinh nghiệm nội địa. Sự đổi mới này giúp nâng cao chất lượng xét xử, giảm rủi ro sai sót trong các vụ việc phức tạp liên quan đến yếu tố quốc tế, từ đó tăng niềm tin cho nhà đầu tư nước ngoài.
Trong khi đó, đối với trọng tài viên thì không có giới hạn cụ thể về quốc tịch, mà chỉ yêu cầu trình độ cơ bản về đại học, có kinh nghiệm năm năm xét xử và tùy thuộc vào điều kiện do chính Trung tâm Trọng tài quốc tế liên quan đặt ra.
Các điểm cần cải thiện của các dự thảo
Đối với Dự thảo Luật Tòa án chuyên biệt
Thứ nhất, bất cập về nguồn thẩm phán và chuyên gia. Dự thảo đề xuất hai phương án, nhưng thiếu cơ chế tuyển chọn rõ ràng cho người nước ngoài. Việt Nam hiện thiếu đội ngũ thẩm phán có trình độ tiếng Anh cao và kinh nghiệm quốc tế, dẫn đến rủi ro quá tải hoặc chất lượng xét xử thấp. Ngoài ra, hiện nay chưa có quy định về hỗ trợ kỹ thuật, làm giảm tính chuyên sâu.
Thứ hai, hạn chế về ngôn ngữ và thủ tục tố tụng. Quy định sử dụng tiếng Anh là tiến bộ, nhưng chưa đồng bộ với Luật Tòa án Nhân dân hiện hành, gây lúng túng khi áp dụng. Dự thảo thiếu quy định về phiên tòa rút gọn hoặc hỗ trợ phiên dịch thời gian thực, có thể kéo dài thời gian xử lý tranh chấp quốc tế, trái với mục tiêu “vượt trội” của Trung tâm Tài chính quốc tế.
Thứ ba, vấn đề thẩm quyền và xung đột pháp lý. Thẩm quyền của Tòa án chuyên biệt chưa rõ ràng, dễ dẫn đến tranh chấp thẩm quyền với tòa án nhân dân cấp tỉnh/khu vực. Việc áp dụng nguyên tắc thông luật chưa được hướng dẫn cụ thể bởi Hội đồng Thẩm phán Tòa án Nhân dân Tối cao, gây khó khăn trong xử lý tranh chấp có yếu tố nước ngoài.
Thứ tư, thiếu cơ chế bảo đảm và thi hành án. Dự thảo quy định ưu đãi thù lao cho thẩm phán nhưng chưa chi tiết về ngân sách, bảo vệ nhân chứng hoặc thi hành bản án quốc tế. Điều này có thể làm giảm niềm tin từ nhà đầu tư, đặc biệt khi tranh chấp liên quan phá sản hoặc sở hữu trí tuệ tài chính.
Các hạn chế trên phản ánh dự thảo chưa hoàn thiện khung pháp lý đồng bộ, cần chỉnh sửa để đảm bảo tính khả thi và hội nhập, tránh tình trạng “nửa vời” trong cải cách tư pháp.
Đối với Dự thảo Nghị định về Trung tâm Trọng tài quốc tế
Thứ nhất, hạn chế về sự linh hoạt thủ tục trọng tài theo thông lệ quốc tế. Dự thảo chưa bổ sung đầy đủ tinh thần về tự do thỏa thuận thủ tục tố tụng, dẫn đến rào cản cho các trung tâm trọng tài Việt Nam áp dụng các quy tắc rút gọn hoặc linh hoạt như tại SIAC hay HKIAC.
Thứ hai, bất cập về cơ sở hạ tầng và nguồn nhân lực. Thực tiễn cho thấy hạ tầng tài chính và nhân lực chất lượng cao tại Việt Nam còn hạn chế, chưa đủ phục vụ một trung tâm trọng tài tầm cỡ quốc tế. Dự thảo chưa có cơ chế cụ thể để khắc phục, như đào tạo chuyên sâu hoặc hợp tác quốc tế, dẫn đến rủi ro thiếu trọng tài viên có kinh nghiệm xử lý tranh chấp phức tạp. Điều này có thể làm giảm niềm tin từ nhà đầu tư ngoại, vốn thường e ngại thủ tục địa phương.
Thứ ba, rủi ro pháp lý và giám sát chưa đồng bộ. Dự thảo cho phép Chính phủ ban hành văn bản xử lý các vấn đề phát sinh ngoài luật hiện hành, nhưng thiếu quy định chi tiết về giám sát rủi ro. Điều này có thể tạo lỗ hổng an ninh tài chính, đặc biệt khi Trung tâm Tài chính quốc tế thí điểm các sản phẩm mới như tín chỉ carbon (carbon credit) hoặc công nghệ tài chính (FinTech), chưa có tiền lệ tại Việt Nam.
Kết luận
Các dự thảo luật và nghị định nêu trên thể hiện sự tiến bộ rõ nét trong việc xây dựng khung pháp lý cho Trung tâm Tài chính quốc tế, với trọng tâm là hiện đại hóa, quốc tế hóa và hiệu quả hóa giải quyết tranh chấp. Những đổi mới không chỉ giảm thời gian, chi phí mà còn tăng sức hấp dẫn cho nhà đầu tư, góp phần thúc đẩy Việt Nam trở thành trung tâm tài chính khu vực. Tuy nhiên, cần tiếp tục hoàn thiện các dự thảo để đảm bảo tính khả thi, tránh xung đột với hệ thống pháp luật hiện hành. Đây là bước đi chiến lược, phù hợp với xu hướng toàn cầu hóa kinh tế.
(*) Trường Đại học Kinh tế - Luật, ĐHQG TPHCM
(**) Trọng tài viên Trung tâm Trọng tài Thương nhân Việt Nam
(1) Dự thảo lần 2 ngày 27-9-2025
(2) Dự thảo lần 1 ngày 15-8-2025
(3) Điều 6 Dự thảo Nghị định về Trung tâm Trọng tài quốc tế
(4) Điều 12 Dự thảo Nghị định về Trung tâm Trọng tài quốc tế
(5) Điều 4 Dự thảo Luật Tòa án chuyên biệt
(6) Điều 10.2 Dự thảo Luật Tòa án chuyên biệt.
TS. Vũ Kim Hạnh Dung (*) - LS. Trần Quốc Đạt (**)