Đền thờ rắn ông Hổ
Châu Đốc có huyện An Phú giáp Campuchia. Vào mùa nước nổi, nơi đây tiếp nhận nguồn cá, tôm, rùa, rắn dồi dào từ thượng nguồn. Tuy nhiên, hiện tại nguồn lợi thủy sản này đã giảm đi rất nhiều do việc xây đập ngăn dòng chảy ở thượng nguồn.
Tại An Phú có xã cù lao Vĩnh Trường được bao bọc bởi bốn bề là sông nước. Đất đai màu mỡ giúp trồng lúa, hoa màu đạt năng suất cao. Thiên nhiên ưu đãi với cảnh đồng lúa xanh tốt, sông ngòi đầy ắp cá tôm đã thu hút người dân từ khắp nơi đến sinh sống từ cuối thế kỷ 17, dần hình thành một vùng dân cư biệt lập, yên bình.
Gọi là biệt lập vì thuở ban đầu, từ Vĩnh Trường muốn đi nơi khác phải di chuyển bằng ghe xuồng. Về sau, có đò máy đưa người từ cù lao sang bờ sông An Phú hoặc Châu Đốc. Giờ đây, cầu xi măng đã nối liền đôi bờ, việc đi lại của người dân rất dễ dàng.
Cuộc sống của người dân Vĩnh Trường tuy không quá phồn thịnh nhưng ấm no. Tuy nhiên, nỗi lo sợ của người dân trong cù lao là việc năm nào cũng có người bị rắn độc cắn chết. Tình trạng này kéo dài từ cuối thế kỷ 18 đến những năm 1920. Các bậc cao niên trong làng đã tìm mọi cách ngăn chặn bằng nhiều loại thuốc giải độc rắn nhưng không hiệu quả.
Trong khi đó, tại một địa điểm không xa Vĩnh Trường, chùa Núi Nổi (Phù Sơn Tự) thuộc xã Tân An (nay là Tân Thanh), nằm giữa huyện An Phú và thị xã Tân Châu, lại có rất nhiều rắn và trăn sinh sống nhưng không cắn chết ai. Sự đối lập giữa hai nơi khiến các bậc cao niên xã Vĩnh Trường suy nghĩ về yếu tố tâm linh.
Lương y Huỳnh Văn Thái, người sống hơn 70 năm tại Vĩnh Trường kể lại: “Cha tôi kể rằng, thấy người trong cù lao bị rắn cắn chết quá nhiều nên các thầy tu, thầy cúng đã họp bàn nhiều tháng liền. Cuối cùng, mọi người thống nhất lập một miếu thờ nhỏ để cầu xin thần rắn tha cho dân. Vì không dám gọi thẳng tên rắn nên họ đặt tên miếu là miếu ông Hổ, nhưng bên trong lại đắp tượng ông rắn. Sau này, tượng bị hư nên người ta vẽ hình lên tường. Ban đầu, miếu nhỏ và lợp bằng tre lá. Thật kỳ diệu, từ khi người dân thành tâm cầu xin ở miếu, hiện tượng người dân bị rắn cắn chết không còn xảy ra nữa. Từ sự linh nghiệm này, người dân càng tin rằng lời cầu xin đã được thần rắn nghe thấy và phù hộ. Từ miếu tre lá, người dân góp tiền xây tường gạch và lợp mái tôn kiên cố hơn”.
Người dân địa phương chọn ngày 17 tháng giêng âm lịch hằng năm là ngày lễ cúng tại miếu ông Hổ. Đại diện ban quý tế sẽ đọc bài cúng cầu xin thần rắn phù hộ cho dân làng được bình an. Vào ngày này, người dân tụ tập rất đông và cúng bằng tiền mặt. Ông từ trông coi miếu sẽ trích tiền quỹ của miếu để tổ chức nấu tiệc đãi mọi người ăn uống cả ngày. Vì vậy, đối với người dân vùng quê chân chất mộc mạc này, lễ cúng miếu ông Hổ được xem như ngày vui, ngày hội họp mặt.
Rắn hội tụ ở Phù Sơn
Ngày xưa, xung quanh Phù Sơn Tự (chùa Núi Nổi) bốn bề là nước, chỉ có một khu vực khoảng 300m2 nổi lên khỏi mặt nước. Tại đó, một ông lão đã dựng lên ngôi chùa lá để thờ Phật. Điều lạ là ban ngày rắn tụ tập về sân chùa rất nhiều. Dù lo sợ nhưng thấy rắn có vẻ hiền lành nên các vị tu hành ngầm hiểu rằng tiếng chuông mõ có một sức tác động nhất định. Họ đã căn dặn các Phật tử không được đụng chạm, chọc phá rắn khi viếng chùa. Từ sự kỳ lạ này, người dân đồn đại nhau về sự thần bí trong năng lực tu tập của các nhà sư. Dẫu vậy, đó chỉ là giai thoại chứ không ai có dịp kiểm chứng các nhà tu hành ấy thể hiện sự thần thông có thể cảm hóa thú dữ.
Ngày nay, hiện tượng rắn tụ hội ở Phù Sơn Tự không còn.
Lương y Huỳnh Văn Thái tại Phù Sơn Tự, nơi mà vào khoảng từ năm 1938 trở về trước rắn tập trung đông nhưng không cắn người - Ảnh: Nguyễn Huy
Sự tích cặp rắn tu ở chùa Bà Thợ
Xung quanh chân và ngay cả trên núi Sam có vài ngôi chùa nổi tiếng, trong đó có chùa Hang.
Chuyện kể rằng, ngày xưa có một phụ nữ từ phương xa đến quy y tại Tây An cổ tự. Sau một thời gian, vị nữ tu ấy tìm một nơi khác cách đó không xa để xây một chòi lá tu hành một mình. Ngay sát am lá của bà có một hang sâu hun hút vào thân núi. Vị nữ tu ấy tên là Diệu Thiện. Bà vốn khéo tay may vá và làm được nhiều việc nên dân chúng gọi là Bà Thợ. Do bà tu hành tinh tấn và hay giúp người nên người dân biết ơn, góp tiền chỉnh trang cái am lá ấy thành một ngôi chùa nhỏ. Bà đặt tên cho nó là Phước Điền tự, với ý nghĩa việc tu hành giống như người nông dân cần mẫn gieo hạt lành xuống cánh đồng phước báu. Nhưng người địa phương vẫn gọi đó là Chùa Bà Thợ. Về sau này, do ngôi chùa dính liền với hang núi nên người ta gọi là Chùa Hang.
Một ngày, có một cặp rắn to lớn xuất hiện trong hang, nơi bà đặt bàn thờ cúng kiến và ngồi thiền. Thoạt đầu, bà cũng lo sợ nhưng cặp rắn không tỏ ra nguy hiểm mà chỉ quanh quẩn xuất hiện vào đúng lúc bà công phu tu hành. Bà ngầm hiểu cặp rắn này muốn nghe tiếng kinh lời kệ nên bà để chúng tự nhiên. Khi bà xong công phu thì chúng rút vào bên trong hang. Hiện tượng này kéo dài suốt nhiều năm, và nó kỳ bí đến mức người ta gọi đây là cặp Thanh Xà – Bạch Xà trong truyền thuyết. Người dân địa phương kể rằng khi ni sư Diệu Thiện qua đời thì cặp rắn không xuất hiện nữa. Ngày nay, Chùa Hang đã được đầu tư xây mới thành một công trình kiến trúc lạ mắt. Hình ảnh ngôi chùa cũ chỉ còn trong ký ức cùng với giai thoại rắn tu năm nào.
Nói chuyện về rắn vùng Thất Sơn và cả khu vực U Minh thuộc miền Tây Nam Bộ có biết bao điều thú vị đan xen giữa giai thoại và thực tế. Tất cả điều này có lẽ xuất phát từ việc hai vùng đất này có quá nhiều rắn các loại sinh sống. Thiên nhiên và vạn vật vốn có nhiều điều bí ẩn mà con người bình thường không hiểu hết. Và có lẽ thế mà họ luôn thích thú, tò mò và có phần nể sợ sức mạnh thiên nhiên.
Năm Ất Tỵ kể vài chuyện về loài bò sát để gửi đến quý độc giả, xem như câu chuyện trà đạo đầu xuân.
Bài, ảnh: Nguyễn Huy