Cụ thể, điều 5 Nghị định số 22/2019 quy định về thẩm quyền giải quyết tố cáo hành vi vi phạm pháp luật trong việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ trong Công an nhân dân (CAND).
Theo đó, trưởng công an phường, trưởng đồn, trưởng trạm công an, trưởng công an thị trấn, trưởng công an xã thuộc biên chế của lực lượng công an (trưởng công an cấp xã) giải quyết tố cáo đối với cán bộ, chiến sĩ thuộc quyền quản lý trực tiếp, trừ phó trưởng công an cấp xã.
Trưởng công an quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, thành (trưởng công an cấp huyện) giải quyết tố cáo đối với Trưởng công an cấp xã, Phó trưởng công an cấp xã và cán bộ, chiến sĩ từ Đội trưởng trở xuống, trừ trường hợp thuộc thẩm quyền giải quyết của Trưởng công an cấp xã; giải quyết tố cáo đơn vị công an cấp xã, đội thuộc quyền quản lý trực tiếp.
Giám đốc công an cấp tỉnh giải quyết tố cáo đối với trưởng phòng, phó trưởng phòng, thủ trưởng, phó thủ trưởng đơn vị tương đương cấp phòng thuộc công an cấp tỉnh, trưởng công an cấp huyện, phó trưởng công an cấp huyện; giải quyết tố cáo đơn vị công an cấp huyện, cấp phòng và đơn vị tương đương do công an cấp tỉnh quản lý trực tiếp.
Tuy nhiên hiện nay, cơ cấu tổ chức của Bộ Công an gồm 3 cấp: Bộ Công an, Công an cấp tỉnh và Công an cấp xã (không bố trí Công an cấp huyện). Một số quy định về thẩm quyền giải quyết tố cáo trong Công an nhân dân không còn phù hợp, cần thiết phải sửa đổi, bổ sung.
Khối Công an phường tham gia diễu binh, diễu hành Ngày hội vì Thủ đô bình yên. Ảnh: Thạch Thảo
Vì vậy, Chính phủ ban hành Nghị định số 224/2025.
Cụ thể, nghị định bãi bỏ quy định thẩm quyền giải quyết tố cáo của trưởng công an cấp huyện.
Về thẩm quyền giải quyết tố cáo của trưởng công an cấp xã: Trưởng công an xã, phường, đặc khu, trưởng đồn công an và tương đương giải quyết tố cáo đối với cán bộ, chiến sĩ công an thuộc quyền quản lý trực tiếp, trừ phó trưởng công an cấp xã, phó trưởng đồn công an và tương đương; giải quyết tố cáo đối với các tổ thuộc quyền quản lý trực tiếp.
Về thẩm quyền giải quyết tố cáo của giám đốc công an cấp tỉnh: giải quyết tố cáo đối với trưởng phòng, phó trưởng phòng, thủ trưởng, phó thủ trưởng đơn vị tương đương cấp phòng thuộc công an cấp tỉnh, trưởng công an cấp xã, phó trưởng công an cấp xã, trưởng đồn, phó trưởng đồn công an và tương đương; giải quyết tố cáo đối với đơn vị thuộc quyền quản lý trực tiếp.
Nghị định cũng quy định về giải quyết tố cáo thuộc thẩm quyền của thủ trưởng đơn vị công an cấp dưới khi có căn cứ cho rằng việc giải quyết tố cáo có vi phạm pháp luật nghiêm trọng hoặc có dấu hiệu không khách quan.
Cụ thể, người có thẩm quyền giải quyết tố cáo trong CAND (giám đốc công an cấp tỉnh; cục trưởng, thủ trưởng đơn vị tương đương cấp cục thuộc cơ quan bộ; Bộ trưởng) giải quyết tố cáo thuộc thẩm quyền của thủ trưởng cơ quan, đơn vị công an cấp dưới trực tiếp khi có căn cứ cho rằng việc giải quyết tố cáo có vi phạm pháp luật nghiêm trọng hoặc có dấu hiệu không khách quan.
Căn cứ xác định việc vi phạm pháp luật nghiêm trọng, có dấu hiệu không khách quan trong giải quyết tố cáo theo quy định của Nghị định quy định chi tiết một số điều và biện pháp tổ chức thi hành Luật Tố cáo.
Như vậy, theo quy định mới, người có thẩm quyền giải quyết tố cáo quy định tại khoản 3 điều 5 Nghị định số 22/2019 không có thẩm quyền giải quyết tố cáo thuộc thẩm quyền của thủ trưởng cơ quan, đơn vị công an cấp dưới trực tiếp khi có căn cứ cho rằng việc giải quyết tố cáo có vi phạm pháp luật nghiêm trọng hoặc có dấu hiệu không khách quan.
Quy định này là do khoản 1 điều 5 đã bỏ trưởng trạm công an có thẩm quyền giải quyết tố cáo và đội trưởng cấp đội và tương đương thuộc cấp phòng, đơn vị tương đương cấp phòng (thuộc công an cấp tỉnh và đơn vị trực thuộc Bộ), trại giam, cơ sở giáo dục bắt buộc, trường giáo dưỡng không có thẩm quyền giải quyết tố cáo.
Trần Thường