Giám sát để kịp thời tháo gỡ 'điểm nghẽn' về chính sách, pháp luật

Giám sát để kịp thời tháo gỡ 'điểm nghẽn' về chính sách, pháp luật
8 giờ trướcBài gốc
Phó Chủ nhiệm Ủy ban Công tác đại biểu Tạ Thị Yên: Chú trọng các chuyên đề giám sát có tính liên ngành, liên lĩnh vực
Để thực hiện chức năng giám sát của các Ủy ban của Quốc hội có hiệu quả, cần chú ý một số biện pháp, giải pháp sau:
Phó Chủ nhiệm Ủy ban Công tác đại biểu Tạ Thị Yên phát biểu. Ảnh: Phạm Thắng
Thứ nhất, về giám sát chuyên đề, các Ủy ban cần chú trọng xây dựng các chuyên đề giám sát có tính liên ngành, liên lĩnh vực thuộc phạm vi phụ trách của Ủy ban. Đồng thời, khi triển khai giám sát phải bảo đảm bao quát toàn diện trên lĩnh vực giám sát đã chọn, nhưng vẫn phải rà soát, lựa chọn vấn đề, lĩnh vực trọng tâm, có tính bức xúc, nổi cộm, có tác động lớn đến xã hội, người dân để tập trung phân tích, đánh giá sâu, tìm ra các giải pháp, kiến nghị chính sách cụ thể để kịp thời tháo gỡ vướng mắc, điểm nghẽn về thể chế, pháp luật. Tránh đánh giá dàn trải, kiến nghị chung chung.
Thứ hai, bên cạnh giám sát chuyên đề, các Ủy ban cần coi hoạt động giải trình là một giải pháp quan trọng và cấp thiết để duy trì chất lượng, hiệu quả giám sát. Việc tổ chức giải trình thường xuyên sẽ giúp các Ủy ban có thêm kênh thông tin nắm bắt thực tiễn, kịp thời sửa đổi, bổ sung, điều chỉnh chính sách, pháp luật.
Thứ ba, trong điều kiện lĩnh vực phụ trách rộng như hiện nay thì các Ủy ban cần phát huy tối đa vai trò của Thường trực Ủy ban như một “bộ não” chủ động nắm bắt thông tin, khởi xướng vấn đề giám sát. Ủy ban Thường vụ Quốc hội cần xây dựng cơ chế, chính sách cụ thể để thu hút đội ngũ chuyên gia về làm việc ở các Tiểu ban, cũng như tham gia các hoạt động khác của Quốc hội, Ủy ban của Quốc hội nói chung.
Thứ tư, để bảo đảm kết quả giám sát đóng góp tích cực, hiệu quả ngay cho công tác hoàn thiện thể chế thì khi xây dựng chương trình giám sát, các Ủy ban cần bảo đảm kết nối chặt chẽ với kế hoạch lập pháp; xác định những đạo luật dự kiến sẽ sửa đổi, bổ sung hoặc đề xuất chính sách mới để tổ chức giám sát, từ đó có thông tin thực tiễn sinh động có giá trị định hướng cho việc sửa đổi, bổ sung Luật.
Cùng với đó, kết quả giám sát phải được thể hiện dưới hình thức các báo cáo phân tích chuyên sâu, có giá trị định hướng sửa luật, làm cơ sở chính thức cho việc đề xuất chính sách.
Thứ năm, các Ủy ban cần phải tăng cường thu thập dữ liệu đa nguồn, bảo đảm khách quan, toàn diện để kịp thời nắm bắt tình hình thực tiễn khi lựa chọn vấn đề giám sát.
Thứ sáu, với phạm vi giám sát rộng, các Ủy ban cần tăng cường phối hợp với các cơ quan kiểm tra, thanh tra, kiểm toán nhà nước, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức xã hội để có thông tin nhiều chiều, làm tăng tính chuyên sâu, phản biện của hoạt động giám sát.
Và cuối cùng, để giám sát thực sự trở thành một nguồn quan trọng của công tác lập pháp, nhất là trong bối cảnh đổi mới quy trình xây dựng pháp luật như hiện nay, thì cần sửa Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội và HĐND để quy định rõ về quyền và nghĩa vụ của các Ủy ban sau giám sát; về trách nhiệm giải trình của các bộ, ngành, cơ quan chịu sự giám sát, đặc biệt là đối với việc tiếp thu, thực hiện các kiến nghị về chính sách, về sửa các luật, nghị quyết. Tăng tính ràng buộc pháp lý đối với việc thực hiện các kiến nghị sau giám sát để giám sát không chỉ dừng ở phát hiện mà còn thực sự là động lực dẫn đến thay đổi, hoàn thiện pháp luật.
Chủ tịch Hiệp hội Bất động sản TP. Hồ Chí Minh Lê Hoàng Châu: Bảo đảm sự bình đẳng, công bằng, tường minh của pháp luật
Chủ tịch Hiệp hội Bất động sản TP. Hồ Chí Minh Lê Hoàng Châu phát biểu. Ảnh: Hồ Long
Thời gian qua, Quốc hội đã tổ chức nhiều chuyên đề giám sát thiết thực, trong đó có giám sát chuyên đề về “Việc thực hiện chính sách, pháp luật về quản lý thị trường bất động sản và phát triển nhà ở xã hội từ năm 2015 đến hết năm 2023”. Giám sát tối cao của Quốc hội đã giúp nhìn rõ thực tiễn, đánh giá luật pháp có phù hợp với cuộc sống không, có đi vào cuộc sống không và nhất là việc thực thi pháp luật của các bộ, ngành, địa phương có đúng và hiệu quả không. Do đó, giám sát của Quốc hội là rất cần thiết để bảo đảm quyền lực Nhà nước tối cao của Quốc hội, bảo đảm sự bình đẳng, công bằng, tường minh của pháp luật.
Chúng tôi rất hoan nghênh việc Quốc hội tổ chức Diễn đàn “Giám sát của Quốc hội để kiến tạo phát triển”, nhằm cụ thể hóa quan điểm chỉ đạo của Tổng Bí thư Tô Lâm là trong năm 2025 phải cơ bản giải quyết dứt điểm các vướng mắc, khó khăn về thể chế, pháp luật; triển khai tinh thần, định hướng đổi mới hoạt động giám sát theo Nghị quyết của Trung ương và Đề án, Kết luận của Đảng đoàn Quốc hội (nay là Đảng ủy Quốc hội) về đổi mới hoạt động giám sát của Quốc hội.
Nhờ sự đổi mới và nâng cao hiệu quả trong hoạt động giám sát của Quốc hội, hệ thống văn bản pháp luật đã được sửa đổi, bổ sung và ban hành mới, bảo đảm tính đồng bộ, thống nhất. Đơn cử, từ kết quả giám sát về nhà ở xã hội, Quốc hội đã ban hành Nghị quyết về thí điểm một số cơ chế, chính sách đặc thù phát triển nhà ở xã hội có ý nghĩa rất quan trọng để thúc đẩy phát triển nhà ở xã hội. Hay qua giám sát của Quốc hội về quản lý thị trường bất động sản, Quốc hội đã phát hiện ra số lượng dự án bất động sản vướng mắc trên thực tế cao hơn rất nhiều so với báo cáo ban đầu. Cụ thể, tại TP. Hồ Chí Minh trước đây báo cáo là 220 dự án, nhưng qua giám sát đã xác định thực tế là 405 dự án đang bị vướng mắc. Trên cả nước, con số lên tới 2.981 dự án tồn đọng do vướng mắc về pháp luật lên tới hơn 7 triệu tỷ đồng và hàng chục nghìn hecta đất. Sau đó, Quốc hội đã ban hành Nghị quyết 170/2024/QH15 về cơ chế, chính sách đặc thù để tháo gỡ khó khăn, vướng mắc đối với các dự án, đất đai trong kết luận thanh tra, kiểm tra, bản án tại TP. Hồ Chí Minh, Đà Nẵng và tỉnh Khánh Hòa. Đây là kết quả rất tuyệt vời, góp phần tháo gỡ điểm nghẽn về thể chế, pháp luật về đất đai.
Điểm chung của các nghị quyết mà Quốc hội ban hành thời gian gần đây, kể cả Nghị quyết 98/2023/QH15 của Quốc hội về thí điểm một số cơ chế, chính sách đặc thù phát triển TP. Hồ Chí Minh, là đi vào cuộc sống ngay. Vì vậy, chúng tôi mong rằng, Quốc hội sẽ tiếp tục tăng cường giám sát tối cao, tháo gỡ khó khăn, vướng mắc trong thể chế, pháp luật, tạo chuyển biến thực chất trong thực tiễn.
Phó Chủ tịch Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam, TS. Đặng Xuân Thanh: Định kỳ đánh giá tác động các chính sách, pháp luật hội nhập quốc tế đến các lĩnh vực
Phó Chủ tịch Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam Đặng Xuân Thanh phát biểu. Ảnh: Phạm Thắng
Nghị quyết 59 ngày 24/1/2025 của Bộ Chính trị về Hội nhập quốc tế trong tình hình mới được xem là một trong bốn trụ cột định hướng chiến lược cho đất nước trong kỷ nguyên mới. Nghị quyết đã xác lập rõ tư duy mới, cũng như định hướng lớn về hội nhập quốc tế của nước ta trong kỷ nguyên mới theo hướng đồng bộ, toàn diện, sâu rộng và hiệu quả, mang tính kiến tạo, phát triển. Do đó, đổi mới và hoàn thiện hệ thống pháp luật để thực hiện quá trình hội nhập theo tinh thần Nghị quyết 59 của Bộ Chính trị là hết sức cần thiết để bảo đảm Việt Nam có đủ năng lực tham gia sâu vào hội nhập quốc tế.
Để tiếp tục hoàn thiện chính sách, pháp luật nhằm triển khai có hiệu quả Nghị quyết 59 của Bộ Chính trị, trước hết, cần nghiên cứu xây dựng một đạo luật khung về hội nhập quốc tế, trong đó quy định các nguyên tắc, phạm vi, cơ chế nội luật hóa, đánh giá tác động, giám sát cam kết quốc tế trên tất cả các lĩnh vực mà Việt Nam tham gia hội nhập. Việc xây dựng một luật khung về hội nhập quốc tế sẽ giúp Việt Nam giải quyết được một số vấn đề bất cập hiện hành trong phân cấp, phân quyền phối hợp trong hợp tác quốc tế, đẩy mạnh hợp tác hội nhập quốc tế sâu rộng và toàn diện như tinh thần Nghị quyết 59 đã đề ra.
Thứ hai, hoàn thiện hệ thống pháp luật chuyên ngành theo hướng tiêu chuẩn hóa, quốc tế hóa, ưu tiên các lĩnh vực có nhiều xung đột pháp lý như: lĩnh vực dữ liệu số và bảo vệ quyền riêng tư, lĩnh vực lao động việc làm bền vững, lĩnh vực môi trường và phát triển bền vững, khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và quyền sở hữu trí tuệ, đầu tư và thương mại, hội nhập về văn hóa xã hội, an ninh quốc phòng...
Thứ ba, cần nhận thức rõ các yêu cầu mới đặt ra đối với các lĩnh vực pháp luật quốc tế, phân tích các xu hướng phát triển của luật pháp quốc tế trong các lĩnh vực mới nổi trong bối cảnh Cách mạng Công nghiệp lần thứ tư, các tình huống mới phát sinh trong quan hệ quốc tế, các vấn đề phát triển bền vững, chống biến đổi khí hậu, phòng chống dịch bệnh toàn cầu… để từ đó xây dựng mới hoặc có các sửa đổi bổ sung trong các quy định pháp luật của Việt Nam.
Thứ tư, cần tăng cường cơ chế phối hợp liên ngành giữa Trung ương và địa phương. Rà soát phân công chức năng của các bộ, ngành trong thực hiện cam kết, thiết lập cơ chế liên ngành xử lý xung đột và những bất cập phát sinh trong hội nhập quốc tế. Việc phân cấp, phân quyền hợp lý cho các địa phương để chủ động hội nhập cũng là một giải pháp cần thiết. Cần thiết lập cơ chế báo cáo hai chiều định kỳ giữa Trung ương và địa phương về các vấn đề hội nhập.
Thứ năm, đẩy mạnh truyền thông pháp luật và hỗ trợ doanh nghiệp, phổ biến nội dung các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới, các thỏa thuận quốc tế, các cam kết quốc tế cho các doanh nghiệp và người dân. Hỗ trợ doanh nghiệp tuân thủ tiêu chuẩn quốc tế về môi trường, lao động, sở hữu trí tuệ.
Thứ sáu, xây dựng hệ thống chỉ số đánh giá hiệu quả hội nhập; thiết lập các công cụ định lượng để theo dõi, đánh giá hiệu quả của quá trình hội nhập quốc tế và thực hiện hiệu quả Nghị quyết 59 của Bộ Chính trị; thực hiện định kỳ đánh giá tác động các chính sách pháp luật hội nhập quốc tế đến các lĩnh vực kinh tế, xã hội, môi trường; điều chỉnh chính sách kịp thời dựa trên kết quả theo dõi, đánh giá và tình hình thực tế, đảm bảo hiệu quả của quá trình hội nhập.
Thứ bảy, cần có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực để bảo đảm hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, hiệu quả. Trong đó, chú ý có kế hoạch đưa các chuyên gia Việt Nam vào làm việc ở các tổ chức quốc tế, vì đây là một trong những giải pháp đảm bảo các hội nhập thực chất, có hiệu quả và có chiều sâu.
M. Trang - T. Chi - P. Thủy
Nguồn Đại Biểu Nhân Dân : https://daibieunhandan.vn/giam-sat-de-kip-thoi-thao-go-diem-nghen-ve-chinh-sach-phap-luat-10382488.html