ThS Nguyễn Thanh Huyền hướng dẫn sinh viên sử dụng AI trong học tập. Ảnh: NVCC
Tuy nhiên, để ứng dụng hiệu quả, điều quan trọng là phải chú trọng đến đạo đức, kỹ năng sử dụng và bảo đảm rằng AI chỉ hỗ trợ, chứ không thay thế vai trò con người trong giáo dục.
Tận dụng AI để cá nhân hóa lớp học
Để một trường đại học sẵn sàng cho kỷ nguyên AI trong giáo dục, cần xây dựng chiến lược và chính sách AI rõ ràng, có hướng dẫn về đạo đức, liêm chính học thuật và khung sử dụng; đầu tư hạ tầng công nghệ, quản lý dữ liệu và bảo mật. Đồng thời, cần đào tạo giảng viên, nhân viên để họ không chỉ biết dùng công cụ mà còn kiểm soát, đánh giá và ứng dụng có trách nhiệm. - TS Lê Duy Tân
ThS Nguyễn Thanh Huyền - giảng viên Khoa Ngoại ngữ, Trường Đại học Công Thương TPHCM, cho biết AI đang hỗ trợ mạnh mẽ cho công việc giảng dạy ở nhiều khía cạnh, đặc biệt là khâu soạn bài giảng, vốn tốn nhiều thời gian nhất.
“Với ChatGPT hoặc Google Gemini, tôi có thể nhanh chóng tạo đề bài, bài tập hoặc gợi ý tài liệu tham khảo phù hợp với sinh viên năm nhất. Trước đây, việc này mất rất nhiều thời gian, nhất là khi thiết kế các bài tập kỹ năng viết hay ngữ pháp. Nhờ AI, tôi rút ngắn được khâu chuẩn bị và có thêm thời gian trao đổi trực tiếp với sinh viên”, ThS Huyền chia sẻ.
Không chỉ hỗ trợ khâu soạn bài, AI còn giúp giảng viên xử lý khối lượng chấm bài khổng lồ. Lớp học đông khiến việc phản hồi chi tiết cho từng sinh viên trở nên khó khăn. ThS Huyền thường sử dụng công cụ Grammarly để đưa ra phản hồi sơ bộ về ngữ pháp và từ vựng, giúp sinh viên tự chỉnh lỗi trước khi nhận đánh giá cuối cùng từ giảng viên.
Theo giảng viên Trường Đại học Công Thương TPHCM, lợi ích rõ nhất của AI là khả năng cá nhân hóa việc học – điều vốn khó thực hiện ở các lớp đại học đông sinh viên. “Trình độ tiếng Anh của sinh viên không đồng đều. Sinh viên từ thành phố thường có nền tảng tốt hơn so với các bạn đến từ nông thôn. Thời gian trên lớp có hạn, nên khó thiết kế bài giảng riêng cho từng nhóm. Nhờ các công cụ như ChatGPT, ELSA Speak hay Duolingo AI, sinh viên có thể học ngoài giờ theo tốc độ riêng. Điều này đặc biệt hữu ích với những bạn yếu, giúp họ không bị tụt lại”, ThS Huyền nói.
Tuy vậy, giảng viên Khoa Ngoại ngữ, Trường Đại học Công Thương TPHCM cũng thẳng thắn nhìn nhận rằng cơ hội học tập cùng AI vẫn phụ thuộc nhiều vào điều kiện công nghệ. Một số sinh viên thiếu thiết bị hoặc Internet ổn định sẽ gặp khó khăn trong việc tiếp cận nền tảng học trực tuyến. Thêm vào đó, nhiều công cụ AI hiệu quả hiện nay chỉ có bản trả phí, nên tính công bằng trong tiếp cận vẫn là vấn đề đáng quan tâm.
Không chỉ sinh viên, đội ngũ giảng viên cũng cần được trang bị kiến thức và kỹ năng để sử dụng AI hiệu quả. “Tôi từng dùng ChatGPT để tạo đề thi viết tiếng Anh nhưng phát hiện nhiều câu hỏi vượt quá khả năng của sinh viên năm nhất. Nếu giáo viên không kiểm chứng, nội dung AI tạo ra có thể gây khó cho người học”, ThS Huyền chia sẻ và dẫn lại khái niệm “AI literacy” (học vấn về AI) do UNESCO đề xuất, gồm bốn trụ cột: hiểu về công nghệ; tư duy phản biện và ra quyết định với AI; đạo đức số và trách nhiệm xã hội; cùng sáng tạo và đổi mới với AI.
“Nếu được bồi dưỡng đầy đủ bốn năng lực này, giáo viên không chỉ dùng AI tốt hơn mà còn dạy sinh viên cách sử dụng công cụ một cách nhân văn”, ThS Nguyễn Thanh Huyền nhấn mạnh.
TS Lê Duy Tân trao đổi với sinh viên về việc sử dụng trí tuệ nhân tạo. Ảnh: NVCC
Cộng sự kỹ thuật số
Với nhiều ngành học khác, AI chỉ đóng vai trò “trợ lý hỗ trợ”, nhưng với giảng viên công nghệ thông tin, AI vừa là công cụ giảng dạy, vừa là đối tượng nghiên cứu.
TS Lê Duy Tân - giảng viên Khoa Công nghệ thông tin, Trường Đại học Quốc tế (Đại học Quốc gia TPHCM) có nhiều trải nghiệm thực tế với công nghệ này trong giảng dạy đại học.
Theo TS Tân, xu hướng ứng dụng AI trong giảng dạy đang phát triển mạnh cả ở trong nước lẫn quốc tế, song mức độ ổn định vẫn chưa đồng đều. Ông cho biết: “Tại các quốc gia phát triển, AI đã được thử nghiệm trong nhiều khâu như xây dựng nội dung, chấm điểm tự động, phản hồi tức thì cho sinh viên và cá nhân hóa lộ trình học tập. Ở Việt Nam, các trường đại học cũng bắt đầu tổ chức tập huấn cho giảng viên, hướng dẫn sử dụng AI trong soạn giáo án, thiết kế đề thi và phân tích kết quả học tập.”
Tuy nhiên, độ phổ biến và chất lượng ứng dụng AI vẫn có sự khác biệt giữa các trường, ngành học và khu vực địa lý. Trên thế giới, nhiều giảng viên vẫn đang trong giai đoạn “dùng thử AI”. Theo khảo sát của Ellucian, 93% cán bộ giáo dục đại học dự báo sẽ mở rộng việc sử dụng AI trong vòng hai năm tới, song hiện nay phần lớn mới chỉ áp dụng ở quy mô hạn chế.
TS Lê Duy Tân đánh giá việc Bộ GD&ĐT ban hành Thông tư 02/2025/TT-BGDĐT quy định Khung năng lực số là “bước đi chiến lược”. Khung này gồm 6 miền và 24 năng lực thành phần, trong đó năng lực sử dụng và hiểu biết về AI là yêu cầu bắt buộc - vừa khuyến khích ứng dụng, vừa bảo đảm đạo đức và hiệu quả.
Với ông, AI không chỉ là trào lưu mà thực sự trở thành “cộng sự kỹ thuật số” trong công việc hằng ngày. “Khi tôi đảm nhận môn mới, chương trình còn sơ khai, tài liệu ít, tôi dùng ChatGPT để tạo dàn bài, ví dụ minh họa, câu hỏi thảo luận... Sau đó chỉnh sửa để phù hợp với sinh viên và phong cách giảng dạy. Việc này giúp tôi tiết kiệm rất nhiều thời gian”, TS Tân cho biết.
AI còn hỗ trợ giảng viên thiết kế đề thi bám sát chuẩn đầu ra. “Tôi dùng AI phân tích ma trận chuẩn đầu ra, sau đó gợi ý câu hỏi để mỗi câu đo lường đúng năng lực cần thiết. Thay vì mất cả buổi để làm đề thi phân hóa theo 4 mức độ - nhận biết, thông hiểu, vận dụng, phân tích, giờ chỉ mất khoảng 30 phút để có bản nháp chất lượng”, giảng viên Khoa Công nghệ thông tin, Trường Đại học Quốc tế cho biết.
Không chỉ hỗ trợ kỹ thuật, AI còn giúp TS Tân tăng chất lượng phản hồi cho sinh viên. “Thay vì viết tay từng phản hồi, tôi nhập ghi chú vào ChatGPT, yêu cầu viết lại theo phong cách khích lệ, lịch sự. Sau đó, tôi rà lại, chỉnh giọng văn cho phù hợp. Nhờ vậy, phản hồi vừa nhanh, vừa cá nhân hóa, tinh tế và kịp thời hơn”, ông chia sẻ.
Tuy nhiên, TS Tân cũng cảnh báo rủi ro khi lạm dụng công cụ: “Nếu không kiểm soát, AI có thể tạo ra nội dung máy móc, thiếu chiều sâu, làm mất đi tư duy và khả năng sáng tạo của người học. Đặc biệt, nếu dùng AI để ‘làm hộ bài’, nguy cơ vi phạm đạo đức học thuật và rò rỉ dữ liệu cá nhân là rất lớn”.
Học sinh tham dự buổi thuyết trình về AI và dữ liệu lớn, tại Trường Đại học Quốc tế (Đại học Quốc gia TPHCM), tháng 9/2025. Ảnh: Lê Nam
AI bước vào lớp học sáng tạo
Ở lĩnh vực sáng tạo, sự xuất hiện của AI lại gây nhiều tranh luận, bởi công nghệ này không chỉ hỗ trợ mà còn có thể thiết kế, sáng tác - vốn là vai trò truyền thống của con người.
Là giảng viên giảng dạy song song hai mảng Digital Marketing tại Học viện VTC Academy và Thiết kế truyền thông tại một số trường cao đẳng, đại học, cô Vũ Nghi Uyên có cái nhìn thực tế và cởi mở hơn về sự hòa nhập giữa AI và sáng tạo.
“Trong khối ngành sáng tạo, có nhiều ý kiến khác nhau về vai trò của AI. Dưới góc nhìn người dạy về cả phương tiện truyền thông và tư duy thiết kế, tôi cho rằng nên chấp nhận sự hiện diện của AI, coi nó là cộng sự trong quá trình sáng tạo”, cô Uyên nói.
Theo cô Uyên, AI đã thay đổi đáng kể cách tổ chức bài học và hướng dẫn sinh viên. Khi dạy về ý tưởng và hình ảnh, cô hướng dẫn sinh viên cách “ra lệnh” cho AI và kiểm soát chất lượng hình ảnh công cụ tạo ra. “Ở giai đoạn đầu, AI giúp sinh viên mô phỏng ý tưởng để dễ hình dung sản phẩm. Nhờ đó, các bạn rút ngắn thời gian phác thảo và có nền tảng tốt hơn để phát triển sản phẩm cuối cùng”, cô chia sẻ.
Cũng như nhiều giảng viên khác, cô Uyên đặc biệt quan tâm đến ranh giới đạo đức trong sáng tạo với AI. “Hiện chưa có bộ quy định chính thức về ranh giới giữa phần việc của AI và con người. Vì vậy, tôi luôn nhấn mạnh: AI chỉ nên được dùng ở giai đoạn phát triển ý tưởng, không sử dụng chi tiết cụ thể do AI tạo ra trong sản phẩm cuối cùng, để bảo đảm tính bản quyền”, cô khẳng định.
Theo cô Vũ Nghi Uyên, bản quyền và minh bạch trong sáng tạo không chỉ là trách nhiệm cá nhân mà còn là đạo đức nghề nghiệp - điều sinh viên cần được rèn luyện sớm. “AI có thể gợi ý, mô phỏng, tổng hợp ý tưởng, nhưng để tạo ra một chiến dịch có chiều sâu hay thiết kế mang bản sắc cá nhân, vẫn cần tư duy và cảm xúc con người. AI là người cộng sự giúp tiết kiệm thời gian để con người đầu tư nhiều hơn cho ý tưởng, thông điệp và cảm xúc - những giá trị mà công nghệ chưa thể sao chép”, cô Uyên nhấn mạnh.
Tại các nước phát triển, các trường đại học đã bắt đầu thử nghiệm AI trong tạo nội dung, chấm điểm tự động, phản hồi tức thì và hệ thống học tập cá nhân hóa (adaptive learning). Theo báo cáo “The Future of AI in Higher Education” của EDUCAUSE, 68% người làm trong giáo dục đại học tin rằng AI sẽ giúp tăng khả năng tiếp cận cho sinh viên, và 66% tin rằng AI sẽ hỗ trợ hiệu quả cho giảng viên, nhân viên trong công việc.
Thùy Linh