Giáo dục nghề nghiệp theo tinh thần Nghị quyết 71-NQ/TW: Đổi mới từ cơ chế đến đào tạo

Giáo dục nghề nghiệp theo tinh thần Nghị quyết 71-NQ/TW: Đổi mới từ cơ chế đến đào tạo
15 giờ trướcBài gốc
NGƯT.TS. Phạm Xuân Khánh - Hiệu trưởng Trường Cao đẳng Công nghệ cao Hà Nội
Điểm mới của Nghị quyết 71-NQ/TW đối với Giáo dục nghề nghiệp
Xác định giáo dục nghề nghiệp (GDNN) là một trụ cột chiến lược trong phát triển nguồn nhân lực: GDNN được đặt ngang hàng với giáo dục đại học trong chiến lược phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao của quốc gia; Nghị quyết khẳng định: “Phát triển mạnh giáo dục nghề nghiệp, coi đây là khâu then chốt trong đào tạo nguồn nhân lực có kỹ năng nghề, đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập quốc tế.”
Đưa khái niệm “kỹ năng nghề chất lượng cao, kỹ năng số, kỹ năng xanh” vào định hướng phát triển GDNN: Từ đào tạo theo bằng cấp sang đào tạo theo chuẩn năng lực; Từ chú trọng kiến thức sang chú trọng kỹ năng, tư duy đổi mới, khả năng thích ứng; Nhân lực nghề nghiệp phải có kỹ năng số, kỹ năng xanh, đáp ứng yêu cầu chuyển đổi số và tăng trưởng xanh.
Sinh viên Trường Cao đẳng Công nghệ cao Hà Nội
Đột phá về cơ chế, chính sách phát triển GDNN: Nghị quyết 71 khẳng định GDNN không chỉ là nhiệm vụ của Nhà nước mà trở thành sự nghiệp của toàn xã hội, đặc biệt là doanh nghiệp: Trao quyền tự chủ mạnh hơn cho các cơ sở GDNN, đặc biệt trong xây dựng chương trình, tuyển sinh, hợp tác doanh nghiệp, quốc tế hóa đào tạo; Khuyến khích doanh nghiệp tham gia sâu vào quá trình đào tạo nghề; Mở rộng cơ chế hợp tác công – tư (PPP), xã hội hóa GDNN, huy động nguồn lực đầu tư từ doanh nghiệp và cộng đồng.
Đào tạo nghề được đặt trong chuỗi giá trị đổi mới sáng tạo và phát triển kinh tế vùng, kinh tế số: Gắn đào tạo nghề với thị trường lao động, chuỗi giá trị và đổi mới sáng tạo: Nghị quyết yêu cầu liên kết chặt chẽ giữa đào tạo – việc làm – thu nhập – an sinh xã hội; Đào tạo nghề phải theo tín hiệu thị trường, linh hoạt theo chuỗi giá trị sản xuất, cụm ngành nghề, vùng kinh tế; Khuyến khích trường nghề tham gia đổi mới sáng tạo, nghiên cứu ứng dụng, khởi nghiệp kỹ thuật.
Đưa chuyển đổi số và hội nhập quốc tế thành hai trụ cột phát triển GDNN hiện đại: Phát triển hệ thống giáo dục nghề nghiệp số, sử dụng nền tảng học tập trực tuyến, mô phỏng thực tế ảo, học liệu mở; Tăng cường hợp tác quốc tế, công nhận kỹ năng nghề xuyên biên giới, tham gia chuẩn kỹ năng nghề ASEAN và thế giới.
Nghị quyết đưa ra tầm nhìn dài hạn, định vị GDNN Việt Nam trong chuỗi giá trị nhân lực toàn cầu: Đến năm 2030, GDNN Việt Nam đạt trình độ tiên tiến trong ASEAN; Đến năm 2045, đạt lực chất lượng cao cho nền kinh tế tri thức.trình độ phát triển cao, hội nhập toàn cầu, cung cấp nhân.
Sinh viên Trường Cao đẳng Công nghệ cao Hà Nội tốt nghiệp đạt chuẩn đầu ra có việc làm và có thể tự tạo việc làm
Giải pháp đổi mới giáo dục nghề nghiệp theo tinh thần Nghị quyết 71/NQ-TW
Nghị quyết 71/NQ-TW, ngày 22/8/2025 của Bộ Chính trị có trích yếu "Về đột phá phát triển giáo dục và đào tạo", đòi hỏi phải đổi mới GDNN nhằm nâng cao chất lượng dạy và học, tập trung đào tạo chất lượng cao, đào tạo theo hướng mở, linh hoạt, chuyển từ hướng “cung” sang hướng “cầu”, đào tạo gắn kết với nhu cầu sử dụng lao động của DN, đặc biệt là các doanh nghiệp đòi hỏi lao động tay nghề cao ở các lĩnh vực công nghệ tiên tiến là yêu cầu bắt buộc của hệ thống GDNN.
Trong đó, áp dụng đồng thời nhiều giải pháp như: đào tạo, bồi dưỡng nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên; thường xuyên đổi mới chương trình, giáo trình, đưa các chương trình quốc tế vào giảng dạy; đổi mới mô hình quản lý, áp dụng CNTT trong toàn bộ quá trình quản lý, đào tạo; đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị máy móc đồng bộ, hiện đại đảm bảo đủ cho sinh viên, học sinh vừa học, vừa hành, vừa nghiên cứu, sản xuất; hợp tác chặt chẽ với DN từ khâu tuyển sinh, xây dựng chương trình, giáo trình, tổ chức đào tạo cho đến giải quyết việc làm; hoạt động của các nhà trường như một doanh nghiệp. Trong đó, các cơ sở GDNN cần tập trung thực hiện đồng bộ các giải pháp sau đây:
Thứ nhất, đổi mới, kiện toàn công tác tổ chức, đầu tư phát triển nguồn nhân lực có trình độ chuyên môn cao: Đổi mới, kiện toàn cơ cấu tổ chức của các đơn vị trong các nhà trường theo hướng linh hoạt, tinh gọn, sắp xếp, bố trí cán bộ viên chức theo đúng mô tả vị trí việc làm. Xóa bỏ hoặc sáp nhập các phòng, khoa, trung tâm hoạt động không hiệu quả; thành lập mới một số đơn vị có chức năng cần thiết cho sự phát triển, nhằm nâng cao hiệu quả công tác đáp ứng được tình hình mới.
Chú trọng công tác đào tạo, nâng cao năng lực, trình độ của đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý, đặc biệt là đối với các nghề mới, các nghề công nghệ cao. Tổ chức nhiều khóa đào tạo, bồi dưỡng về khoa học công nghệ mới, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số trong và ngoài nước cho cán bộ, giảng viên có năng lực nghiên cứu, sản xuất trong các cơ sở GDNN nhằm nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, kiến thức, kỹ năng, đủ năng lực nghiên cứu, ứng dụng, tiếp thu, làm chủ, phát triển công nghệ tiên tiến, hiện đại, hình thành lực lượng chuyên gia khoa học và công nghệ trình độ cao.
Thầy và trò Trường Cao đẳng Công nghệ cao Hà Nội đạt nhiều giải thưởng trong chương trình
Thứ hai, đẩy nhanh chuyển đổi số: Đẩy nhanh chuyển đổi số để xây dựng hệ thống quản lý tinh, gọn, triển khai các hoạt động của các nhà trường trên môi trường số, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý, hoạt động dạy và học, kiểm tra, đánh giá giúp tăng cường hiệu quả công tác quản lý và mở rộng phương thức đào tạo cá nhân hóa việc học tập, tạo tính mở và linh hoạt cho người học, tạo đột phá về chất lượng, tăng nhanh số lượng đào tạo, góp phần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực có kỹ năng nghề.
Xây dựng hoàn thiện thể chế, cơ chế chính sách; phát triển chương trình, nội dung đào tạo các cấp trình độ phù hợp với yêu cầu của chuyển đổi số trong nền kinh tế và hội nhập quốc tế; đầu tư phát triển hạ tầng, nền tảng, thiết bị và học liệu số; kết nối, khai thác nền tảng số GDNN quốc gia; số hóa quá trình học tập, kết quả học tập, văn bằng của người học…
Đào tạo, phát triển năng lực số cho đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý GDNN và đổi mới phương pháp dạy và học; huy động nguồn lực cho quá trình chuyển đổi số; nâng cao nhận thức và hợp tác quốc tế; bảo đảm an toàn, an ninh mạng. Đảm bảo 100% nhà giáo và cán bộ quản lý được đào tạo nâng cao năng lực số, kỹ năng, phương pháp sư phạm phù hợp để triển khai đào tạo trên môi trường số; 100% nhà giáo được đào tạo phát triển học liệu số. 100% chuẩn đầu ra chương trình đào tạo các trình độ được tích hợp năng lực số.
Thứ ba, đổi mới công tác tuyển sinh, đào tạo và giải quyết việc làm cho sinh viên: Công tác tuyển sinh và đào tạo phải gắn kết với nhu cầu sử dụng lao động của các Doanh nghiệp, khu công nghiệp là nhiệm vụ quan trọng số 1 trong hoạt động của các cơ sở GDNN. Trong bối cảnh hiện nay, các cơ sở đào tạo cần đầu tư, nghiên cứu mở các ngành, nghề mới theo hướng công nghệ cao, công nghiệp mũi nhọn 4.0 như: AI, Cơ khí chế tạo, công nghệ bán dẫn, công nghệ sinh học, năng lượng thông minh, Robots, Logistics, Nông nghiệp công nghệ cao…
Đổi mới phương thức, tổ chức dạy và học theo hướng mở, tích lũy modul, chứng chỉ, học đến đâu công nhận đến đấy, tạo điều kiện thuận lợi nhất cho người học có thể học tập liên tục, học tập suốt đời. Triển khai hệ thống đào tạo trực tuyến; ứng dụng các phần mềm mô phỏng và xây dựng các bài giảng thực hành ảo, kết hợp với doanh nghiệp để tổ chức đào tạo tại doanh nghiệp.
Thường xuyên cập nhật kịp thời những thay đổi của công nghệ, khoa học kỹ thuật đưa vào chương trình đào tạo nhằm nâng cao chất lượng đào tạo, phù hợp với bối cảnh mới; từng bước áp dụng các chương trình tiên tiến, chương trình dạy bằng ngoại ngữ; bổ sung vào chương trình đào tạo các modul phương pháp NCKH, kỹ năng khởi nghiệp ĐMST, kỹ năng làm việc nhóm, kỹ năng mềm, kỹ năng số…
Đổi mới chương trình và công tác tổ chức, quản lý đào tạo trên cơ sở chuẩn “đầu ra”. Bảo đảm liên thông thuận lợi giữa các cấp trình độ đào tạo trong cùng ngành, nghề hoặc với các ngành, nghề khác hoặc liên thông lên trình độ cao hơn trong hệ thống giáo dục quốc dân.
Thứ tư, gắn kết chặt chẽ GDNN với thị trường lao động; huy động sự tham gia đóng góp của doanh nghiệp, các tổ chức xã hội vào hoạt động đào tạo: Quan hệ chặt chẽ với doanh nghiệp và thị trường lao động để tiếp nhận sinh viên tốt nghiệp; thực hành, thực tập; hợp tác nghiên cứu, sản xuất sản phẩm, chuyển giao công nghệ, thu hút đội ngũ các chuyên gia có kỹ năng nghề giỏi, kỹ sư giỏi của các doanh nghiệp tham gia biên soạn chương trình, giáo trình, trực tiếp giảng dạy, hướng dẫn thực hành kỹ năng nghề; tiếp nhận tài trợ học bổng và trang thiết bị hỗ trợ cho đào tạo, bồi dưỡng nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên.
Xây dựng cơ chế khuyến khích tổ chức đào tạo tại doanh nghiệp, đào tạo theo đơn đặt hàng, theo địa chỉ; hợp tác nghiên cứu, sản xuất sản phẩm… Xây dựng mô hình hợp tác hoạt động có hiệu quả với doanh nghiệp trên cơ sở các bên cùng có lợi như thành lập các trung tâm đào tạo, nghiên cứu, sản xuất…
Thứ năm, triển khai hiệu quả công tác nghiên cứu, ứng dụng khoa học và chuyển giao công nghệ, thúc đẩy tinh thần khởi nghiệp và đổi mới sáng tạo theo Nghị quyết 57-NQ/TW của Bộ Chính trị: Đẩy mạnh hoạt động NCKH, ĐMST, khai thác có hiệu quả cơ sở vật chất, trang thiết bị máy móc; năng lực đội ngũ cán bộ giáo viên cùng với đội ngũ sinh viên có kỹ năng nghề để nghiên cứu và sản xuất các sản phẩm công nghệ vừa phục vụ dạy và học vừa phục vụ thương mại hóa.
Đầu tư, hỗ trợ sinh viên trong các hoạt động nghiên cứu, thử nghiệm, sản xuất sản phẩm, thương mại hóa, chuyển giao công nghệ và khởi nghiệp; tập hợp các ý tưởng; tạo ra một sân chơi KHCN cho sinh viên nhằm kích thích năng lực nghiên cứu sáng tạo của sinh viên giúp sinh viên tiếp cận với các kiến thức, công nghệ mới nhằm góp phần nâng cao chất lượng đào tạo.
Bên cạnh các hoạt động nghiên cứu khoa học như thực hiện các đề tài, dự án nghiên cứu khoa học các cấp; phát triển các mô hình dạy và học, biên soạn và chuẩn hóa chương trình, giáo trình bài giảng,... cần tổ chức thường niên cuộc thi “Đổi mới sáng tạo và khởi nghiệp”; các triển lãm như: Triển lãm các sản phẩm KHCN có khả năng thương mại hóa...; Hội thi thiết bị dạy nghề tự làm; thành lập doanh nghiệp, doanh nghiệp KHCN, để hỗ trợ và thúc đẩy các hoạt động nghiên cứu, sản xuất và thương mại hóa sản phẩm khoa học và công nghệ nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả đào tạo.
Khuyến khích cán bộ, giáo viên nghiên cứu khoa học thông qua các hội nghị, hội thảo KHCN, các bài báo, công trình nghiên cứu đăng trên các tập san, các ấn phẩm khoa học; mở rộng hợp tác nghiên cứu với các tổ chức, cá nhân; các doanh nghiệp, viện nghiên cứu, trường đại học trong và ngoài nước.
Sinh viên Trường Cao đẳng Công nghệ cao Hà Nội thực hành trong phòng máy
Thứ sáu, hiện đại hóa cơ sở vật chất thiết bị và đổi mới chương trình, phương thức đào tạo: Hầu hết các cơ sở GDNN hiện nay đều thiếu hụt cơ sở vật chất, trang thiết bị hiện đại phục vụ cho đào tạo, nghiên cứu khoa học công nghệ. Do đó, cần tăng cường cơ sở vật chất, trang thiết bị máy móc hiện đại và tạo điều kiện thuận lợi nhất cho người học trong quá trình thực hành kỹ năng nghề bắt kịp xu thế đào tạo mới trên cơ sở huy động mọi nguồn lực (gồm ngân sách nhà nước, nhà trường tự đầu tư, của doanh nghiệp và xã hội hóa), tập trung đầu tư cơ sở vật chất, thiết bị theo mô hình sản xuất của doanh nghiệp, tạo lập môi trường học tập chuyên nghiệp và hiện đại phục vụ hoạt động đào tạo, nghiên cứu khoa học, thực hành và rèn luyện kỹ năng nghề cho cán bộ, giảng viên và sinh viên; xây dựng phòng học đa phương tiện, phòng chuyên môn hóa; hệ thống thiết bị thực tế ảo và các phần mềm ảo mô phỏng để giảm bớt đầu tư trang thiết bị. .
Thứ bảy, đẩy mạnh, đa dạng hóa hợp tác quốc tế trong giáo dục nghề nghiệp, nâng cao chất lượng theo hướng hiện đại và tiếp cận nền giáo dục nghề nghiệp tiên tiến trong khu vực và trên thế giới: Bối cảnh mới với sự phát triển nhanh chóng của Cách mạng công nghiệp 4.0 và hội nhập quốc tế sâu rộng đã đặt ra nhu cầu về nguồn nhân lực chất lượng cao, có năng lực đáp ứng yêu cầu của thị trường lao động. Để làm được điều này, một trong những yếu tố quan trọng là đẩy mạnh và đa dạng hóa hợp tác quốc tế để đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao theo tiêu chuẩn quốc tế, phù hợp với trình độ các nước trong khu vực và trên thế giới, góp phần nắm bắt cơ hội, nâng cao năng suất lao động và bắt kịp xu hướng thay đổi, phát triển của thế giới.
Theo đó, các cơ sở GDNN cần chủ động hợp tác với các nước, các tổ chức quốc tế có nhiều thành công trong giáo dục nghề nghiệp từ Cộng hòa Liên bang Đức, Hàn Quốc, Nhật Bản… trên các phương diện như: Hỗ trợ nâng cao năng lực quản lý, nâng cao năng lực hoạch định và xây dựng chính sách GDNN; thu hút các nguồn vốn ODA từ các nhà tài trợ để phát triển GDNN nhằm giảm bớt được phần nào khó khăn về vốn cũng như công nghệ mà Việt Nam đang gặp khó khăn; hợp tác đào tạo nghề chất lượng cao cho các doanh nghiệp, trước hết là các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài; hợp tác hỗ trợ kỹ thuật, nâng cao năng lực của cả hệ thống;
Hỗ trợ đầu tư cơ sở dạy nghề đạt chất lượng cao, đào tạo những nghề đạt đẳng cấp khu vực và quốc tế, thông qua các chương trình, dự án cụ thể như chuyển giao chương trình, đào tạo bồi dưỡng giáo viên… tạo điều kiện để cơ sở giáo dục nghề nghiệp phát triển bền vững, đào tạo nguồn nhân lực có trình độ và chất lượng cao nhằm phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước.
Thứ tám, đầu tư xây dựng một số cơ sở đào tạo chất lượng cao, đạt chuẩn quốc tế, thực hiện được chức năng trung tâm vùng, quốc gia: Trong đó, chú trọng đầu tư đồng bộ, mở các ngành, nghề mới, ngành, nghề tương lai theo hướng công nghệ cao, công nghiệp mũi nhọn có vai trò dẫn dắt và thực hiện sứ mệnh mới cho các cơ sở giáo dục nghề nghiệp; đổi mới công nghệ và kỹ thuật số, thúc đẩy sáng tạo và đi đầu trong phương pháp thiết kế và chuyển giao các chương trình giảng dạy mới; cung cấp các kỹ năng chất lượng cao theo quan điểm học tập suốt đời, thúc đẩy nghiên cứu và sự đổi mới; tạo nên hình ảnh giáo dục nghề nghiệp trở nên hấp dẫn hơn trên thị trường lao động.
NGƯT.TS. Phạm Xuân Khánh - Hiệu trưởng Trường Cao đẳng Công nghệ cao Hà Nội
Nguồn Đại Biểu Nhân Dân : https://daibieunhandan.vn/giao-duc-nghe-nghiep-theo-tinh-than-nghi-quyet-71-nq-tw-doi-moi-tu-co-che-den-dao-tao-10392774.html