Giao thông được xác định là nguồn phát thải lớn gây ô nhiễm môi trường không khí. Ảnh: Tiến Dũng
Nguồn phát thải lớn từ giao thông
Tại thành phố Hà Nội, khí thải từ xe sử dụng xăng dầu và bụi đường cuộn lên trong giờ cao điểm đã trở thành hình ảnh quen thuộc. Cùng với xây dựng, công nghiệp, làng nghề và hoạt động dân sinh, giao thông nằm trong bốn nhóm nguyên nhân gây ô nhiễm không khí lớn nhất tại đô thị.
Theo Cục Môi trường (Bộ Nông nghiệp và Môi trường), khí thải từ phương tiện giao thông góp khoảng 15% lượng bụi mịn PM2.5 và bụi đường chiếm khoảng 23%. Tổng phát thải từ hoạt động giao thông chiếm khoảng 38% tại thành phố Hà Nội trong các đợt ô nhiễm nghiêm trọng thời gian qua. Còn nghiên cứu do Ngân hàng Thế giới thực hiện cho thấy, nguồn giao thông chiếm khoảng 12% và hạt ô nhiễm thứ cấp hình thành từ khí tiền chất (như NOx) do giao thông thải ra chiếm khoảng 18%. Riêng bụi đường cuốn lên từ giao thông, xây dựng và xi măng chiếm khoảng 17%.
Những con số này cho thấy hoạt động giao thông vẫn là nhóm gây ô nhiễm không khí lớn tại Hà Nội, đặc biệt vào mùa đông khi điều kiện khí tượng hạn chế khả năng khuếch tán chất ô nhiễm. Vì vậy, việc kiểm soát nguồn phát thải này tiếp tục là nhiệm vụ trọng tâm trong thời gian tới, để giải bài toán ô nhiễm không khí tại các đô thị lớn.
Xe máy cũ xả khói không bảo đảm tiểu chuẩn ra môi trường. Ảnh internet
Hỗ trợ chuyển đổi sang phương tiện giao thông sạch
Hiện Bộ Nông nghiệp và Môi trường đang xây dựng dự thảo quy định lộ trình áp dụng Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về khí thải xe mô tô, xe gắn máy tham gia giao thông ở Việt Nam, đồng thời ban hành Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về khí thải xe mô tô, xe gắn máy lưu hành ở Việt Nam, Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia đối với khí thải xe ô tô tham gia giao thông đường bộ.
Dự thảo mới nhất đề xuất lộ trình đến ngày 1-7-2026 không có xe mô tô, xe gắn máy sử dụng nhiên liệu hóa thạch lưu thông trong đường Vành đai 1; từ ngày 1-1-2028 không có xe mô tô, xe gắn máy, hạn chế xe ô tô cá nhân sử dụng nhiên liệu hóa thạch lưu thông trong đường Vành đai 1, Vành đai 2; từ năm 2030 tiếp tục mở rộng thực hiện trong đường Vành đai 3 tại thành phố Hà Nội. Dự thảo cũng định hướng xây dựng hệ thống kiểm định khí thải phương tiện giao thông, kết nối dữ liệu phục vụ kiểm kê phát thải và quản lý.
Bên cạnh đó, quy định lộ trình áp dụng quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về khí thải xe ô tô tham gia giao thông đường bộ cũng vừa được ban hành. Theo đó, xe ô tô sản xuất trước năm 1999 áp dụng mức 1 từ ngày quyết định này có hiệu lực thi hành (28-11-2025). Với xe ô tô sản xuất từ năm 1999 đến hết năm 2016 áp dụng mức 2 từ ngày quyết định này có hiệu lực thi hành. Xe ô tô sản xuất từ năm 2017 đến hết năm 2021 áp dụng mức 3 từ ngày quyết định này có hiệu lực thi hành. Đối với xe ô tô sản xuất từ năm 2017 đến hết năm 2021 tham gia giao thông trên địa bàn thành phố Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh áp dụng mức 4 từ ngày 1-1-2027. Xe ô tô sản xuất từ năm 2022 áp dụng mức 4 từ ngày quyết định này có hiệu lực thi hành, áp dụng mức 5 từ ngày 1-1-2032. Đối với xe ô tô sản xuất từ năm 2022 tham gia giao thông trên địa bàn thành phố Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh áp dụng mức 5 từ ngày 1-1-2028.
Ô nhiễm không khí thường xuyên xảy ra vào mùa đông tại Hà Nội và nhiều tỉnh phía Bắc. Ảnh: internet
Ngoài ra, từ ngày 1-1-2029, xe ô tô tham gia giao thông trên địa bàn thành phố Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh phải đáp ứng quy định về khí thải từ mức 2 trở lên.
Bên cạnh việc kiểm soát khí thải xe máy, xe mô tô, xe ô tô đang lưu hành, các chuyên gia của dự án “Lồng ghép chống chịu biến đổi khí hậu và bảo vệ môi trường để phát triển các đô thị xanh” do Cục Môi trường, Bộ Nông nghiệp Môi trường chủ trì, đề xuất nghiên cứu giới hạn số lượng xe máy đăng ký mới và tiến tới ngừng cấp đăng ký xe máy sử dụng nhiên liệu hóa thạch tại Hà Nội và thành phố Hồ Chi Minh theo lộ trình phù hợp. Đây được xem là biện pháp có tác động lớn đến người dân, vì vậy các chính sách hỗ trợ sẽ cần được chuẩn bị song song.
Các chuyên gia môi trường cũng đề xuất xây dựng chính sách ưu đãi, xã hội hóa cho người dân và doanh nghiệp trong chuyển đổi xe mô tô, xe gắn máy cũ sang phương tiện sử dụng năng lượng sạch, năng lượng xanh, thân thiện môi trường; áp dụng chính sách ưu đãi, hỗ trợ miễn giảm phí cho học sinh, sinh viên sử dụng giao thông công cộng; phát triển hệ thống dịch vụ xe đạp công cộng (huy động xã hội hóa thông qua chính sách ưu đãi, hỗ trợ).
Đặc biệt, các địa phương cần hoàn thiện, nâng cấp, mở rộng hạ tầng giao thông công cộng, xây dựng lộ trình đầu tư, chuyển đổi phương tiện giao thông công cộng sử dụng nhiên liệu hóa thạch sang xe buýt sử dụng năng lượng sạch, năng lượng xanh, thân thiện môi trường; hoàn thiện các tuyến đường sắt đô thị (metro) và xây dựng hạ tầng trạm sạc điện, tủ đổi pin xe điện phù hợp đa phương tiện. Xây dựng phương án khuyến khích việc chuyển đổi phương tiện sang sử dụng năng lượng sạch, năng lượng xanh, thân thiện môi trường đối với các tuyến vận tải hành khách bằng xe buýt liên tỉnh và các tuyến vận tải hành khách cố định.
Đức Duy