Ông Phạm Văn Hứa đi đầu cùng đoàn tù Côn Đảo được Hải quân Việt Nam đón vào chiều 15/5/1975
Những ngày cuối tháng 11, khi những cơn mưa phùn rả rích rơi do ảnh hưởng của áp thấp nhiệt đới, chúng tôi có mặt tại nhà anh Phạm Văn Tám là con trai út của ông Phạm Văn Hứa (bí danh Phạm Hứa) - ông là một trong 173 người (giáo viên đi B) tình nguyện vào Nam mang ánh sáng tri thức, văn hóa đến vùng giải phóng. Sau mấy chục năm, ngôi nhà cấp 4 nhuốm màu thời gian vẫn lặng lẽ nép mình bên dòng sông Hồng thuộc khu 8, xã Bản Nguyên.
Các con của ông Phạm Văn Hứa xúc động khi nhắc đến bố mình
Rót chén nước chè nóng mời khách cùng chiếc bánh sắn quyện trong mùi khói bếp, 8 người con của ông mắt đỏ hoe, nghẹn ngào kể về bố mình. Anh Phạm Duy Ngôn, con trai cả của ông nói: Ngày bố tôi đi B, mẹ tôi sinh được 4 người con và anh chỉ sang anh Thanh ngồi cạnh (chính là người đã nhìn thấy tên bố mình trong danh sách những nhà giáo đi B bị địch bắt tù đày ra Côn Đảo được trưng bày tại Triển lãm thành tựu đất nước “80 năm hành trình Độc lập - Tự do - Hạnh phúc”). Chúng tôi chỉ nhớ trong câu chuyện bố kể, bố bị địch bắt tra tấn rất dã man và sau đó bị đày ra nhà tù Côn Đảo. Sau 2 ngày giải phóng miền Nam 30/4/1975, các tù nhân chính trị ở Côn Đảo được đưa về đất liền, chữa trị bệnh tật và đoàn tụ với gia đình.
Anh Phạm Duy Ngôn và anh Phạm Văn Ba lần giở những tập tư liệu của bố mình
Cầm trên tay tập hồ sơ bản photo (bản chính đã được gia đình bàn giao cho Trung tâm lưu trữ Quốc gia III làm tư liệu lịch sử). Đây là những tài liệu mà sau khi ông Hứa mất năm 1993 (lúc đó ông 58 tuổi), gia đình đã lục tìm trong chiếc ba lô lộn của ông mới thấy được các tư liệu về cuộc đời sự nghiệp của ông qua thư, ảnh của người bạn tù cũng như các giấy tờ của tổ chức Đảng các cấp. Tôi lần giở từng trang, đọc từng dòng sơ yếu lý lịch, thời gian trước ngày đi B và những năm tháng ông bị địch bắt tù đày ra Côn Đảo.
Sau khi tốt nghiệp sư phạm cấp 2 Bắc Giang, ông Hứa về dạy học trường làng ở quê rồi lên làm Hiệu trưởng Trường cấp 2 Tứ Xã, Cao Xá và Bản Nguyên. Năm 1968, tròn 33 tuổi ông đã gửi lại quê nhà cha mẹ già, vợ dại và đàn con thơ để lên đường vượt Trường Sơn vào miền Nam nhận nhiệm vụ, mang mật danh K2042. Ông được giao nhiệm vụ làm Bí thư Chi bộ của đoàn cán bộ vào chiến trường, hành trang mang theo là những bộ sách giáo khoa viết cho vùng giải phóng, là vũ khí giáo dục ra đi không hẹn ngày về.
Các con của ông Hứa tìm về ngôi trường THCS Bản Nguyên - nơi bố mình từng công tác và làm hiệu trưởng
Sau những ngày tháng luồn rừng theo đường mòn Hồ Chí Minh, tháng 9 năm 1969, đoàn cán bộ tới được Ban giáo dục T2 Trung Nam Bộ trực thuộc Ban Giáo dục của Trung ương Cục miền Nam; ông được giao nhiệm vụ làm Hiệu trưởng Trường Nguyễn Văn Bé, kiêm Bí thư Chi bộ. Hai năm sau, ông được điều động lên công tác tại Ban Giáo dục Trung ương Cục. Tháng 2 năm 1971, trong một chuyến đi công tác, ông sa vào một trận phục kích của địch, bị chúng bắt ở xã Tân Thanh, huyện Hồng Ngự, tỉnh Kiến Phong (cũ) nay là tỉnh Đồng Tháp.
Qua nhiều lần tra tấn cực hình gí điện, tạt nước sôi nhưng không khai thác được gì, tháng 5 năm 1971 chúng quyết định đày ông ra Côn Đảo - nơi được mệnh danh là địa ngục trần gian. Chúng bắt ông lao động khổ sai dưới roi vọt, báng súng, lưỡi lê, chúng lại nhốt ông cùng với 3 người tù khác ở lao 6, lao 7 với các chuồng cọp nổi tiếng có diện tích chỉ vỏn vẹn hơn 2m2.
Ở trong lao tù vẫn có tổ chức Đảng hoạt động lãnh đạo các cuộc đấu tranh chống Mỹ - Ngụy, chống chế độ lao dịch khổ sai, chống chế độ ngược đãi bằng bạo lực, chống ly khai Cộng sản. Quyết liệt nhất là cuộc đấu tranh giữa tháng 9/1971, một số người tù đã tự mổ bụng moi ruột vắt qua hàng rào để đòi địch phải thực hiện 7 yêu sách cải thiện đời sống của tù nhân.
Người đảng viên cộng sản, nhà giáo, chiến sĩ Phạm Văn Hứa được cử vào Chi ủy nhà tù và là đại diện của tù nhân khu A lao 6. Ông đã không phụ lòng tin của đồng chí, anh em; trong nhà tù, nhà giáo Phạm Văn Hứa cùng các đồng chí khác tham gia dạy bổ túc văn hóa, tìm cách sinh hoạt văn hóa, giữ vững lòng tin với Bác Hồ, với Đảng, với cách mạng.
Khi cuộc tiến công nổi dậy của ta mùa Xuân 1975 trong đất liền giành thắng lợi, bọn địch đã tìm mọi cách để tiếp tục khống chế cán bộ, chiến sĩ ta nhưng cuộc đại thắng mùa Xuân năm 1975 đã làm thất bại âm mưu nham hiểm của địch; tù nhân đã nổi dậy làm chủ khi tàu Hải quân của ta tiến vào giải phóng đảo.
Những người tù được đón vào đất liền và ngày 21/5/1975 ông Hứa lại trở về cơ quan cũ ở T2. Ban tổ chức Trung ương cục đã quyết định phân công ông làm Trưởng phòng Bổ túc Văn hóa - Sở Giáo dục khu 8 Nam Bộ. Tuy nhiên, theo nguyện vọng, ông Hứa được trở ra miền Bắc, được cử về làm Hiệu trưởng Trường PTCS Bản Nguyên.
Từ tháng 5/1978 đến tháng 5/1980, ông tiếp tục đi học Cao đẳng sư phạm Vĩnh Phú và trở về Trường PTCS Bản Nguyên với cương vị Hiệu trưởng nhà trường. May mắn được sống sót trở về nhưng sức khỏe đã bị tàn phá nghiêm trọng trong quá trình bị tra tấn và giam cầm tại Côn Đảo nên tháng 9/1983 ông xin về nghỉ hưu tại Bản Nguyên. Trong quá trình làm nhà giáo, ông Hứa đã góp phần dạy dỗ đào tạo nhiều thế hệ học sinh theo mục tiêu giáo dục của Đảng và Nhà nước đặt ra cho ngành GD&ĐT.
Những năm tháng được về sống với vợ con, bản thân ông Hứa luôn sống khiêm nhường, yêu thương vợ con, đức độ, chưa một lần kêu ca hay đòi hỏi bất kỳ sự đãi ngộ nào của Đảng, Nhà nước và ngành. Vì những phẩm chất đó, noi theo gương ông, ngày nay, các con, cháu luôn xúc động mỗi khi nhắc, nhớ đến ông và tự hào khi có người cha, ông như thế. Trong sâu thẳm, gia đình luôn mong muốn cha ông mình được các cấp, các ngành quan tâm để có một danh phận xứng đáng với những đóng góp, cống hiến của ông.
Với những thành tích đặc biệt đạt được, ông Phạm Văn Hứa đã được tặng thưởng Huân chương Quyết thắng hạng Nhì và 2 Huân chương kháng chiến chống Mỹ hạng Nhất cùng nhiều phần thưởng cao quý khác.
Ngôi nhà cấp 4 nhuốm màu thời gian - nơi nhắc nhớ những ngày ông Phạm Văn Hứa sống ở quê nhà
Những nỗ lực trong việc tự khẳng định mình của một nhà giáo-chiến sĩ, tấm gương phấn đấu của ông mãi là những dấu ấn đậm nét không phai mờ đối với đồng chí, đồng nghiệp, với Nhân dân, với các thế hệ hôm nay và mai sau. Một điều ý nghĩa hơn nữa là càng gần đến ngày Nhà giáo Việt Nam 20/11, chúng ta lại càng trân trọng và nhớ đến những người thầy như thế - một tấm gương thầm lặng.
Đinh Tú