Từ ngày 1/1/2026, Luật Nhà giáo chính thức có hiệu lực, kéo theo nhiều thay đổi trong cơ chế quản lý, bổ nhiệm, xếp lương đối với đội ngũ giáo viên các cấp. Trong đó, một thay đổi đáng chú ý là bỏ hệ thống xếp hạng cứng I, II, III vốn tồn tại nhiều năm qua. Thay vào đó, giáo viên sẽ được phân loại theo chức danh nghề nghiệp gắn với vị trí việc làm thực tế.
Bộ Giáo dục và Đào tạo đang lấy ý kiến dự thảo Thông tư quy định mã số, bổ nhiệm và xếp lương đối với nhà giáo giảng dạy trong cơ sở giáo dục công lập. Dự thảo được lấy ý kiến đến ngày 10/10/2025 đang thu hút sự quan tâm lớn của thầy cô.
Theo đại diện lãnh đạo một số cơ sở giáo dục, đây là một bước tiến lớn đảm bảo sự minh bạch, rõ ràng trong việc bổ nhiệm và xếp lương đối với nhà giáo. Tuy nhiên, để chính sách đi vào thực tiễn cần có hướng dẫn cụ thể và kịp thời sửa đổi những bất cập khi triển khai.
Bỏ xếp hạng I, II, III như hiện nay giúp nhà giáo bớt áp lực
Trao đổi với phóng viên Tạp chí điện tử Giáo dục Việt Nam, cô giáo Trần Thị Mị - Hiệu trưởng Trường Tiểu học Võ Thị Sáu (phường An Biên, Hải Phòng) nhận định: Luật Nhà giáo có hiệu lực từ ngày 1/1/2026 có nhiều điểm mới trong đó có 2 điểm nổi bật liên quan đến chế độ lương của nhà giáo khiến các thầy cô hết sức phấn khởi.
Thứ nhất là việc bỏ xếp hạng giáo viên loại I, II, III là quyết định hợp lòng giáo viên và phù hợp với tinh thần đổi mới tránh việc thầy cô phải chịu áp lực nâng hạng chức danh nghề nghiệp. Việc này thực sự chưa đánh giá sát năng lực của giáo viên, mang tính hình thức và thủ tục.
Một tiết học tại Trường Tiểu học Võ Thị Sáu (phường An Biên, Hải Phòng). Ảnh: website nhà trường
Để “lên hạng”, giáo viên phải trải qua một quy trình phức tạp: từ việc tham gia lớp bồi dưỡng tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp, hoàn thiện hồ sơ minh chứng, chờ xét duyệt qua nhiều tầng nấc quản lý, đến những đợt tổ chức thẩm định không đều giữa các địa phương. Nhiều người ví việc nâng hạng như một “cuộc thi ngầm” kéo dài, nơi năng lực chưa chắc là yếu tố quyết định.
Chính vì vậy, với không ít giáo viên, việc bỏ xếp hạng I, II, III được xem là cách tháo bỏ một “tảng đá” khỏi vai, ít nhất là về mặt tâm lý.
Đặc biệt, việc quy định tỷ lệ phần trăm mỗi hạng trong từng trường đôi khi cũng dẫn đến bất cập khi một số giáo viên trẻ có năng lực đủ điều kiện nhưng xếp hàng mãi không được nâng hạng.
Thứ hai, việc bổ nhiệm chức danh nghề nghiệp và xếp lương của giáo viên căn cứ vào vị trí việc làm, chức trách, nhiệm vụ và năng lực chuyên môn nghiệp vụ đã hiện thực hóa việc công bằng trong xếp lương cho giáo viên.
Khi bổ nhiệm xếp lương căn cứ vào năng lực chuyên môn chính là việc ghi nhận và tạo động lực cho giáo viên rèn luyện năng lực, nghiệp vụ và cũng là động lực để giáo viên phấn đấu phát triển bền vững.
Cùng bàn về vấn đề này, cô giáo Nguyễn Thị Hương - Hiệu trưởng Trường mầm non Nhi Đức (phường Kiến An, Hải Phòng) bày tỏ: Về cơ bản việc chuyển từ hệ thống hạng cũ (I, II, III) sang chức danh nghề nghiệp mới (giáo viên – giáo viên chính – giáo viên cao cấp) không làm thay đổi mức lương hiện hưởng của giáo viên, nếu giáo viên được bổ nhiệm vào chức danh tương đương. Việc xác định chức danh,trình độ vẫn phải đợi quy định và hướng dẫn chi tiết của Bộ Giáo dục và Đào tạo.
Trong Dự thảo Thông tư của Bộ Giáo dục và Đào tạo (lấy ý kiến đến ngày 10/10/2025), có nêu nguyên tắc rõ ràng: “Trường hợp chức danh nghề nghiệp mới có hệ số lương thấp hơn mức lương đang hưởng thì giữ nguyên mức lương hiện tại (bảo lưu phần chênh lệch)”.
Ví dụ: Giáo viên hiện đang ở hạng II sẽ được bổ nhiệm vào chức danh “Giáo viên chính” (đúng vị trí việc làm). Chức danh mới gắn với loại viên chức A0, A1, A2, A3, có hệ số lương tương đương hệ số cũ đã áp dụng. Vì thế không làm tăng hoặc giảm lương trừ khi có thăng tiến hoặc thay đổi vị trí việc làm.
Nếu giáo viên chỉ chuyển đổi tên gọi nhưng không thay đổi về vị trí, nhiệm vụ, hạng hiện tại thì mức lương giữ nguyên. Nếu giáo viên được xét thăng chức danh nghề nghiệp (ví dụ từ giáo viên lên giáo viên chính), thì mới được xếp lương mới cao hơn.
Tuy nhiên, điểm mới là hệ số lương đặc thù tương ứng với chức danh nhà giáo nhưng vẫn phải đợi Nghị định, Thông tư hướng dẫn chi tiết.
Bên cạnh đó, giáo viên mầm non nếu có nguyện vọng có thể nghỉ hưu sớm hơn tuổi nghỉ hưu quy định đối với người lao động bình thường, tối đa 5 năm mà không bị giảm tỷ lệ hưởng lương hưu nếu đã đóng đủ 15 năm bảo hiểm xã hội là sự ghi nhận xứng đáng với giáo viên mầm non.
Một hoạt động của học sinh Trường mầm non Nhi Đức (phường Kiến An, Hải Phòng). Ảnh: website nhà trường
Còn cô Phạm Thị Ngà – Hiệu trưởng Trường Tiểu học Nguyễn Đức Cảnh (phường An Biên, Hải Phòng) cho rằng, dù bỏ xếp hạng là tín hiệu tích cực, song áp lực đối với giáo viên sẽ không biến mất hoàn toàn – mà chỉ thay đổi hình thức nếu không có cơ chế giảm bớt thủ tục hành chính..
Theo đó, chức danh nghề nghiệp vẫn mang tính phân tầng (giáo viên – giáo viên chính – giáo viên cao cấp), và mức lương vẫn gắn với chức danh. Vì vậy, mong muốn “được bổ nhiệm chức danh cao hơn” vẫn sẽ tồn tại, và những lo toan về hồ sơ, điều kiện, đánh giá hiệu suất vẫn sẽ đè nặng trong một bộ phận không nhỏ giáo viên.
Đồng thời, tiêu chuẩn bổ nhiệm vào chức danh mới chưa thật sự rõ ràng. Việc đánh giá theo “vị trí việc làm” – một khái niệm còn khá mơ hồ tại nhiều cơ sở giáo dục có thể dẫn tới sự không đồng đều, phát sinh tâm lý so sánh và thiếu minh bạch.
Ngoài ra, nếu không có cơ chế giám sát minh bạch và công bằng, việc bổ nhiệm chức danh nghề nghiệp dễ rơi vào tình trạng “bình mới rượu cũ”.
Cần sớm có hướng dẫn chi tiết tiêu chuẩn cụ thể các hạng chức danh
Việc chuyển từ hệ thống hạng I,II,III sang chức danh nghề nghiệp mới theo dự thảo Thông tư có thể mang lại nhiều điểm tiến bộ, nhưng cũng tiềm ẩn những thách thức.
Hiệu trưởng Trường Tiểu học Nguyễn Đức Cảnh cho rằng: Khi Luật Nhà giáo được áp dụng, thuận lợi lớn là sự minh bạch, công bằng hơn trong xếp lương, tránh việc “lấp kẽ” hạng, tạo đà cho phát triển nghề nghiệp thực chất dựa vào năng lực, thành tích, trách nhiệm công việc chứ không chỉ dựa vào “xếp hạng”.
Cô Phạm Thị Ngà – Hiệu trưởng Trường Tiểu học Nguyễn Đức Cảnh (phường An Biên, Hải Phòng). Ảnh: NVCC
Hệ số lương được cấu trúc theo loại viên chức (A0, A1, A2, A3…), kết hợp vị trí chức danh sẽ giúp phân biệt rõ hơn giữa các mức đóng góp, trách nhiệm, năng lực, tạo động lực cho giáo viên phấn đấu lên các chức danh cao hơn.
Việc bảo lưu phần chênh lệch hệ số lương là rất cần thiết để đảm bảo rằng giáo viên không bị giảm thu nhập khi chuyển đổi – điều này giúp giảm lo lắng trong giai đoạn chuyển tiếp.
Tuy nhiên, đối tượng giáo viên hạng II, III cũ chuyển sang chức danh mới “không thay đổi về lương” trong khi đồng nghiệp được nâng lên hệ số lương cao hơn sẽ có sự so sánh nội bộ và có người cảm thấy thiệt thòi.
Đối tượng giáo tiểu học chưa đạt chuẩn trình độ đào tạo được áp dụng hệ số viên chức loại B, từ 1,86 đến 4,06. Như vậy mức lương này tương đối thấp mặc dù có thầy cô đã giảng dạy lâu năm.
Bên cạnh đó, rủi ro là nếu tiêu chí bổ nhiệm không rõ ràng hoặc quá cứng nhắc, giáo viên khó đáp ứng để lên chức danh cao hơn, dẫn tới tâm lý bị “kẹt chức danh”. Đồng thời, ngân sách nhà nước và ngân sách địa phương phải chuẩn bị đầy đủ để đảm bảo các hệ số mới, phụ cấp, hệ số đặc thù được chi trả đầy đủ, không để lỗ hổng về tài chính ảnh hưởng đến giáo viên.
Ngoài ra, cần có lộ trình chuyển đổi, để giáo viên đang giữ hạng I,II,III hiện nay có thời gian thích ứng, điều chỉnh, “luyện” để đáp ứng điều kiện mới, tránh gây ảnh hưởng cho những người đã công tác lâu năm.
Việc tổ chức tập huấn, bồi dưỡng nâng cao năng lực, chuyên môn kỹ năng để giáo viên có khả năng đáp ứng tiêu chí chức danh mới là cực kỳ quan trọng, nếu không sẽ có khoảng cách giữa chính sách và thực tiễn.
Trong quá trình thực hiện, cần theo dõi đánh giá, phát hiện bất cập, có điều chỉnh linh hoạt, để Thông tư không trở thành “luật trên giấy”.
Đồng tình với quan điểm này, cô Trần Thị Mị cho rằng Dự thảo Thông tư quy định mã số, bổ nhiệm và xếp lương đối với nhà giáo mà Bộ Giáo dục và Đào tạo đưa ra là bước đi rất cần thiết để hiện thực hóa Luật Nhà giáo từ năm 2026. Việc chuyển đổi hệ thống xếp hạng giáo viên sang chức danh nghề nghiệp mới, nhằm nâng cao tính minh bạch, công bằng và khuyến khích nhà giáo phát triển chuyên môn.
Tuy nhiên, theo cô Mị để chính sách đi vào thực tế hiệu quả và không gây xáo trộn lớn, cần chú ý một số nội dung.
Thứ nhất, cần tích cực tuyên truyền để giáo viên tại các cơ sở giáo dục hiểu rõ mã số, chức danh nghề nghiệp và lộ trình chuyển đổi.
Thứ hai, hoàn thiện tiêu chí, thang điểm đánh giá minh bạch cho từng chức danh nghề nghiệp; công khai quy trình xét duyệt, khiếu nại, phản biện để tăng tính công bằng.
Thứ ba, xây dựng lộ trình chuyển đổi rõ ràng, bảo đảm quyền lợi cho giáo viên hiện đang giữ các hạng cũ, không để người công tác lâu năm bị thiệt thòi.
Thứ tư, bố trí đủ kinh phí từ trung ương và hỗ trợ địa phương, nhất là các vùng khó khăn, để chi trả hệ số, phụ cấp, hệ số đặc thù đúng và kịp thời.
Thứ năm, tăng cường đào tạo, bồi dưỡng, hỗ trợ nâng cao năng lực nghề nghiệp, để giáo viên có cơ hội đáp ứng tiêu chí chức danh cao hơn. Đồng thời cần đánh giá định kỳ, điều chỉnh linh hoạt trong quá trình thực hiện để sửa các vướng mắc, tránh sai lệch lớn giữa chính sách và thực tế tại địa phương.
LÃ TIẾN