Như PLO đã thông tin, liên quan đến vụ "Giả vờ mua hàng, đôi nam nữ giật điện thoại của phụ nữ khuyết tật", thông tin từ UBND Phường Long An, tỉnh Tây Ninh, cho biết Công an phường Long An đã bắt được nghi can nữ trong vụ án.
Đối với trách nhiệm pháp lý của hai người thực hiện hành vi, Luật sư Trương Ngọc Liêu, Đoàn Luật sư TP Hà Nội, cho biết từ nội dung clip và một số thông tin ban đầu cho thấy đôi nam nữ đã giả vờ mua hàng, từ đó tạo ra sự sơ hở của người bán hàng và lợi dụng sự sơ hở đó để chiếm đoạt tài sản là chiếc điện thoại di động và nhanh chóng tẩu thoát. Đây là các dấu hiệu đặc trưng của Tội cướp giật tài sản được quy định tại Điều 171 Bộ luật Hình sự 2015.
Về mặt khoa học pháp lý hình sự, Tội cướp giật tài sản thuộc loại tội phạm cấu thành hình thức, tức người phạm tội chỉ cần thực hiện hành vi được mô tả tại phần giả định thì đã cấu thành tội phạm, mà không phụ thuộc vào việc đã chiếm đoạt tài sản hay chưa chiếm đoạt được tài sản, giá trị tài sản là bao nhiêu.
Giả vờ mua hàng, đôi nam nữ giật điện thoại của phụ nữ khuyết tật. Ảnh cắt từ clip
Tuy vậy, việc giám định giá trị tài sản bị chiếm đoạt là chiếc điện thoại trong sự việc trên là cần thiết theo quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015 nhằm mục đích xác định khung hình phạt bị truy tố, cũng như xác định trách nhiệm về mặt dân sự của đối tượng thực hiện hành vi.
Về mức hình phạt chính, Luật sư Liêu cho biết, Tội cướp giật tài sản được Bộ luật Hình sự 2015 quy định thành 04 khung khác nhau, với mức hình phạt thấp nhất là 01 năm tù (Khoản 1) và cao nhất lên đến chung thân (Khoản 4). Ngoài hình phạt chính, người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng.
Đáng chú ý, nạn nhân trong vụ án này là người khuyết tật, có bệnh án tâm thần. Đây là tình tiết có ý nghĩa quan trọng trong việc xác định khung hình phạt khi cơ quan chức năng thực hiện việc khởi tố điều tra, truy tố, xét xử. Theo đó, phạm Tội cướp giật tài sản đối với người không có khả năng tự vệ là tình tiết định khung hình phạt quy định tại Khoản 2 Điều 171 Bộ luật Hình sự.
Ngoài ra, phạm tội đối với người ở trong tình trạng không thể tự vệ được, người khuyết tật nặng hoặc khuyết tật đặc biệt nặng, người bị hạn chế khả năng nhận thức… là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự được quy định tại Điểm K Khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự (Trừ trường hợp tình tiết này đã được quy định là tình tiết định khung hình phạt thì không được coi là tình tiết tăng nặng).
Liên quan đến tình tiết sau khi bị cướp điện thoại nạn nhân rơi vào tâm trạng buồn bã và đã mất, Luật sư Liêu nhận định: Khoản 4 Điều 171 Bộ luật Hình sự có quy định về tình tiết định khung tăng nặng “làm chết người”.
Trên thực tiễn, tiết này thường được áp dụng đối với các trường hợp cướp giật dẫn đến sự té ngã của nạn nhân như cướp giật của người đang điều khiển phương tiện tham gia giao thông dẫn đến nạn nhận bị té và chấn thương sọ não dẫn đến cái chết. Việc áp dụng tình tiết định khung “làm chết người” đòi hỏi khi áp dụng phải chứng minh được mối quan hệ nhân quả trực tiếp giữa hành vi cướp giật tài sản và cái chết xảy ra đối với nạn nhân.
Tuy nhiên, trong vụ việc trên nạn nhân là người có bệnh án tâm thần, bệnh phổi. Quá trình giật điện thoại cũng không dẫn đến làm té ngã nạn nhân, cái chết cũng không xảy ra đồng thời tại thời điểm các đối tượng thực hiện hành vi mà xảy ra sau đó một khoảng thời gian đủ lâu. Vì vậy việc có áp dụng tình tiết định khung tăng nặng “làm chết người” trong trường hợp này hay không cần phải được làm rõ qua quá trình điều tra. Đặc biệt làm rõ về nguyên nhân cái chết và mối quan hệ nhân quả giữa nguyên nhân đó với hành vi cướp giật của các đối tượng trong vụ việc trên.
TRẦN MINH