Bà Nguyễn Thị Nhạn cần mẫn chăm nong tằm.
Từng được trao giải “Cửu phẩm công nghệ” tại Kinh thành Thăng Long năm 1942, tơ Cổ Chất (Ninh Giang, Ninh Bình) đã ghi dấu vàng son trong lịch sử các làng nghề truyền thống. Giữa thách thức mai một, người dân nơi đây vẫn kiên trì giữ nghề, khẳng định sức sống bền bỉ của tinh hoa tơ tằm Việt.
Thăng trầm nghề tơ tằm
Cổ Chất từ lâu đã nổi tiếng với nghề ươm tơ truyền thống, cung cấp nguồn tơ sợi chất lượng cho nhiều làng nghề dệt lụa nổi tiếng trên cả nước, trong đó có Vạn Phúc (Hà Nội).
Tơ Cổ Chất từng nổi tiếng đến mức, vào đầu thế kỷ XX, người Pháp đã đầu tư xây dựng một nhà máy ươm tơ ngay đầu làng để tận dụng tay nghề khéo léo của thợ địa phương cùng vùng nguyên liệu dâu tằm trù phú ven sông Ninh Cơ. Năm 1942, tơ tằm Cổ Chất được Phủ thủ hiến Bắc Kỳ trao giải thưởng “Cửu phẩm công nghệ” tại một phiên đấu xảo (hội chợ) ở Kinh thành Thăng Long – nơi hội tụ tinh hoa các làng nghề truyền thống. Từ đó, nghề ươm tơ Cổ Chất ngày càng phát triển mạnh mẽ và nổi tiếng khắp vùng.
Thời kỳ hoàng kim, có tới 95% hộ dân làng Cổ Chất gắn bó với nghề ươm tơ. Về làng khi ấy, đâu đâu cũng bắt gặp những dải tơ vàng óng, trắng muốt phơi đầy trên sào tre trước ngõ. Tuy nhiên, từ khoảng năm 2010 trở lại đây, số hộ theo nghề ngày càng giảm, đến nay trong làng chỉ còn rất ít hộ giữ được nghề truyền thống.
Trước kia, nguồn kén chính cho Cổ Chất đến từ các thôn ven đê sông Ninh Cơ, cũng thuộc xã Ninh Giang. Nhưng theo thời gian, diện tích trồng dâu ngày càng bị thu hẹp, số hộ nuôi tằm cũng vơi dần.
Trong ngôi nhà nhỏ ở thôn Tiến Thắng, xã Ninh Giang, bà Nguyễn Thị Nhạn (sinh năm 1949) vẫn ngày ngày cần mẫn bên nong tằm. Ở tuổi ngoài bảy mươi, bà là một trong số ít người còn bền bỉ giữ nghề trồng dâu, nuôi tằm nơi đây. Bà cho biết, nuôi tằm chẳng khác nào chăm con mọn, vì đúng 3 tiếng phải cho ăn một lần, ngày cũng như đêm. Bởi thế mới có câu truyền đời: “Nuôi lợn ăn cơm nằm, nuôi tằm ăn cơm đứng”.
Từ ấu trùng nhỏ bằng sợi tóc, tằm trải qua từng lần “ngủ” để lột xác, lớn dần và ăn khỏe hơn. Khi chuyển sang màu vàng đỏ, tằm được đưa lên né để làm kén. Tính từ giai đoạn tằm “ăn 3” (ấu trùng tuổi 3, đã ăn 3 ngày rồi nghỉ 1 ngày 1 đêm) cho đến khi kết thúc tuổi 5, sẵn sàng chín để đóng kén, mất khoảng 13 ngày. Trung bình một nong tằm cho thu hoạch từ 2,5 - 3kg kén.
Bà Nhạn nhớ lại, ngày trước gia đình có tới vài chục nong tằm, nong nọ nối nong kia kín cả gian nhà. Giờ đây, sức đã yếu, bà chỉ còn nuôi 6 nong. Thế nhưng, để duy trì 6 nong tằm ấy, công việc cũng chẳng hề nhẹ nhàng, bởi bà phải chăm từng luống dâu để có lá tươi, sạch cho tằm ăn.
“Tằm rất nhạy cảm với thời tiết. Nóng gắt quá cũng chết, lạnh quá cũng chết. Những ngày oi nóng, tôi phải dùng quạt cho tằm, còn mùa Đông thì che chắn, giữ kín gió. Nếu trời rét đậm, thậm chí phải trùm chăn giữ ấm. Lá dâu cũng vậy, nhất định phải khô ráo. Nếu hái lúc trời mưa, dính nước thì phải hong cho thật khô mới dám cho ăn, nếu không tằm sẽ bị bệnh”, bà Nhạn giải thích.
Có lẽ cái nghề “ăn cơm đứng, ngủ không tròn giấc” ấy quá vất vả, thu nhập lại thấp hơn nghề khác, nên đến nay chỉ còn ít hộ bám trụ.
Khi nguồn nguyên liệu tại địa phương không còn dồi dào, người thợ Cổ Chất buộc phải thu mua kén tằm từ khắp nơi trên cả nước để ươm tơ, kéo sợi, trong bối cảnh giá nguyên liệu bấp bênh. Thêm vào đó, phần lớn giới trẻ trong làng không mặn mà với nghề, bởi công việc thủ công vất vả mà thu nhập thấp. Vì thế, giờ đây trong làng hầu như chỉ còn những người cao tuổi, đã gắn bó cả đời với kén tằm, nong tơ, vẫn bền bỉ giữ nghề.
Bà Đoàn Thị Hiền (sinh năm 1965, trú tại xã Ninh Giang) chia sẻ: Bà gắn bó với nghề ươm tơ từ nhỏ nên luôn nặng lòng với từng sợi tơ, không nỡ bỏ nghề dù công việc vất vả.
Để hoàn thành quy trình ươm tơ, người thợ Cổ Chất phải tập trung cao độ, tỉ mỉ và kiên nhẫn. Sau khi phân loại kén theo chất lượng, họ thả từng mẻ kén vào nồi nước nóng nghi ngút khói. Đôi tay thoăn thoắt cầm đôi đũa tre liên tục đảo đều để lớp vỏ kén mềm ra, dần bong khỏi lõi bên trong. Khi ấy, người thợ sẽ tìm mối tơ, rút ra, chập khoảng 10 sợi với nhau, rồi kéo lên quấn vào bát tơ.
Theo bà Hiền, trước kia mỗi lần ươm tơ, người thợ phải ngồi bên bếp than đỏ lửa, chịu khói cay mắt và hơi nóng hầm hập. Giờ đây, máy móc đã hỗ trợ phần nào, song thợ ươm vẫn phải túc trực bên nồi, tay đảo liên tục, mắt dõi theo từng sợi mong manh để nối kịp những đoạn đứt, giữ cho dải tơ luôn liền mạch, óng mượt.
Những sợi tơ được kéo đều tay, cuốn vào bát tơ. Lớp tơ đủ dày, người thợ chuyển sang guồng, ghim mặt và tháo thành từng bó để đem phơi nắng. Đây gọi là tơ sống. Trước khi đem se thành tơ thành phẩm dệt lụa, tơ sống phải được phơi khô. Nếu nắng gắt, chỉ cần phơi 2 ngày, còn hôm âm u phải kéo dài tới cả tuần. Sau khi khô, tơ được các hộ thu mua, se thành sợi, rồi xuất đi các vùng dệt lụa cũng như sang Lào, Thái Lan…
Người thợ ươm tơ thủ công liên tục dùng đũa đảo kén để tìm mối tơ.
Dù thủ công hay có máy móc hỗ trợ, thợ ươm vẫn phải tập trung cao độ.
Đau đáu giữ lửa nghề
Giống như nhiều làng nghề truyền thống khác, nghề tằm tơ ở Cổ Chất cũng không tránh khỏi nguy cơ mai một.
Để giữ nghề, một số hộ dân đã đầu tư máy móc, thiết bị hiện đại hỗ trợ công đoạn ươm tơ, kéo sợi. Việc này vừa tăng năng suất, vừa nâng cao chất lượng sản phẩm, cải thiện thu nhập. Những nỗ lực ấy không chỉ mang lại hiệu quả kinh tế, mà còn tạo động lực để hướng tới mục tiêu khôi phục thời hưng thịnh, gìn giữ và phát triển giá trị truyền thống của tơ lụa Cổ Chất.
Bà Đoàn Thị Huê, chủ một cơ sở se tơ, cho biết: Bà gắn bó với nghề gần 30 năm. Trước kia, mọi công đoạn đều thủ công, nay gia đình bà đã đầu tư máy móc hiện đại hỗ trợ quy trình sản xuất. Nhờ vậy, chất lượng và năng suất tơ cải thiện rõ rệt, chi phí nhân công giảm. Trung bình, mỗi tháng cơ sở của bà Huê xuất khoảng 1 tấn tơ thô sang thị trường Lào, Thái Lan, với giá bán từ 900.000 đến 1,4 triệu đồng/kg.
Bên cạnh đó, năm 2021, một số nghệ nhân lành nghề từ các gia đình còn giữ kỹ thuật cổ truyền đã cùng nhau thành lập Hợp tác xã Lụa Cổ Chất. Từ đó, họ không ngừng nghiên cứu, ứng dụng công nghệ hiện đại để tạo ra những sản phẩm tơ lụa thủ công cao cấp, vừa giữ trọn giá trị truyền thống, vừa nâng tầm thương hiệu Cổ Chất trên thị trường.
Bà Trần Thị Ngọc, thành viên hợp tác xã, chia sẻ: Nếu cứ giữ lối thủ công cũ, sản phẩm dễ lỗi thời, năng suất thấp, khó cạnh tranh. Việc đầu tư công nghệ giúp tăng năng suất, tạo ra sản phẩm tinh tế, đẹp mắt, dễ thu hút khách hàng. Năm 2022, dòng vải tơ tằm thủ công Chất Silk của hợp tác xã được UBND tỉnh công nhận đạt chuẩn OCOP 4 sao, trở thành cú hích mạnh mẽ, mở ra cơ hội đưa sản phẩm đến đông đảo khách hàng trong và ngoài nước.
Để xây dựng thương hiệu lụa Cổ Chất, hợp tác xã không chỉ dựa vào phương thức bán hàng truyền thống, mà còn đẩy mạnh quảng bá trên các nền tảng số, tăng cường bán hàng qua sàn thương mại điện tử, mở rộng mạng lưới khách hàng.
Ngoài xuất khẩu tơ thô, hợp tác xã còn chú trọng phát triển dòng sản phẩm may mặc thời trang từ tơ tằm tự nhiên, mang đến cho khách hàng những sản phẩm tinh tế, hiện đại nhưng vẫn giữ hồn truyền thống. Đó chính là sự tiếp nối để nghề truyền thống không chỉ “sống” trong ký ức, mà ngày càng phát triển.
Những bó tơ mềm mại, suôn đều, óng ả phơi trên sào tre.
Sản phẩm lụa tơ tằm tinh xảo tại Hợp tác xã Lụa Cổ Chất.
Nhờ những nỗ lực ấy, nghề ươm tơ Cổ Chất dần có sức sống trở lại, người dân có thêm động lực gìn giữ và phát triển nghề quê hương.
Ông Nguyễn Hồng Sơn - Phó Chủ tịch UBND xã Ninh Giang, cho biết: Xác định phát triển làng nghề ươm tơ là nhiệm vụ trọng tâm để thúc đẩy kinh tế địa phương, xã sẽ khảo sát thực tế, quy hoạch lại làng nghề, khuyến khích người dân quay trở lại với cây dâu, con tằm, liên kết hợp tác tìm đầu ra ổn định.
Địa phương cũng lập kế hoạch tu sửa, nâng cấp cơ sở hạ tầng như đường giao thông, bãi gửi xe, nhằm phát triển du lịch làng nghề. Đây sẽ là bước đi thu hút du khách đến tham quan, tìm hiểu giá trị văn hóa, lịch sử và nghệ thuật thủ công tinh xảo của làng ươm tơ Cổ Chất, góp phần tạo thêm nguồn thu, khuyến khích người dân giữ nghề.
Với những nỗ lực ấy, sợi tơ Cổ Chất sẽ ngày càng vươn xa, khẳng định vị thế trên thị trường tơ lụa trong nước và quốc tế.
Bài. ảnh: Vân Anh