Đô thị thông minh cần được thiết kế không chỉ để tối ưu dữ liệu, mà còn nâng cao trải nghiệm con người. (Ảnh TGCC)
Tuy nhiên, nếu thiếu chiều sâu văn hóa, những tầm nhìn này có nguy cơ trở thành “vỏ rỗng công nghệ”, tức là hiệu quả trên bề mặt nhưng lại thiếu tính nhân văn, vốn là yếu tố khiến các thành phố trở nên đáng sống.
Với mục tiêu trở thành quốc gia số vào năm 2030 và nước thu nhập cao vào năm 2045, Việt Nam đang đứng trước cơ hội thay đổi tư duy về đổi mới sáng tạo số, không chỉ về tiến bộ kỹ thuật mà còn về hành động văn hóa, làm sao để vừa phát triển hạ tầng thông minh, vừa gìn giữ được hồn dân tộc.
Văn hóa số không chỉ là nội dung được số hóa hay các ngành công nghiệp sáng tạo. Đó là cách con người hành xử, tương tác, hình thành niềm tin và giá trị cùng công nghệ trong môi trường số.
Đồng thời, đó là cách văn hóa và di sản được bảo tồn và tích hợp vào hệ sinh thái số. Tuy nhiên, trong các chiến lược đô thị thông minh hiện nay, việc số hóa văn hóa vẫn chưa được chú trọng đúng mức.
Thành công của chiến lược phát triển đô thị thông minh tại Việt Nam không chỉ phụ thuộc vào việc triển khai công nghệ từ trên xuống, mà còn nằm ở khả năng thích nghi văn hóa từ dưới lên và những sáng kiến đổi mới do người dân khởi xướng.
Đô thị thông minh cần được thiết kế không chỉ để tối ưu dữ liệu, mà còn để nâng cao trải nghiệm con người - bảo đảm rằng công nghệ sẽ làm giàu thêm, chứ không phải phai mờ đi bản sắc địa phương, khả năng sáng tạo và giá trị văn hóa. Nếu không, người dân có thể cảm thấy xa lạ với chính những hệ thống được tạo ra để phục vụ họ, hay nói cách khác là môi trường sống tiên tiến nhưng vô cảm.
Trên thực tế, Việt Nam có sẵn nền tảng để phát triển văn hóa số. Lĩnh vực nghệ thuật số sáng tạo trong nước đang phát triển mạnh, với sự hình thành của nhiều hợp tác liên ngành.
Người Việt cũng nổi tiếng linh hoạt và sáng tạo trong đời sống thường nhật. Hãy nhìn vào một nét đặc trưng của đô thị Việt: Văn hóa xe máy – điều dường như hỗn loạn trong mắt người ngoài thực chất là một hệ thống tự tổ chức đầy linh hoạt và sáng tạo. Nó phản ánh cách người dân điều hướng, thương lượng và thay đổi cách sử dụng hạ tầng để phù hợp với cuộc sống thực tế của mình – một minh chứng sống động cho khả năng sáng tạo bền bỉ của người Việt.
Phần lớn các thảo luận về đô thị thông minh hiện nay chủ yếu còn tập trung hạn hẹp vào công nghệ hóa hạ tầng và dịch vụ thiết yếu, dẫn đến sự xuất hiện của các thuật ngữ như công nghệ tài chính, công nghệ khu vực công, công nghệ giáo dục hay công nghệ y tế.
Tuy nhiên, nhiều chiến lược quốc gia và khu vực lại thiếu vắng hình bóng của công nghệ nghệ thuật hay công nghệ văn hóa – những lĩnh vực nuôi dưỡng bản sắc, văn hóa, sự sáng tạo và cảm giác gắn kết.
Một xã hội thông minh toàn diện cần vượt ra khỏi hạ tầng vật lý để hướng tới “hạ tầng ý nghĩa”. Trong một xã hội đầy rẫy thuật toán, chính những người kể chuyện, nghệ sĩ và nhà thiết kế sẽ giúp con người cảm thấy gắn kết. Điều giúp Việt Nam nổi bật không chỉ có chuyển đổi số mà là cam kết giữ yếu tố con người ở vị trí trung tâm. Bởi lẽ, một đô thị thực sự thông minh là một đô thị lấy con người làm gốc.
Việt Nam là nơi văn hóa giao thoa với vi mạch, nơi năng lượng tuổi trẻ thổi sức sống mới vào sự uyên bác của cha ông. Xã hội thông minh mà chúng ta hướng tới sẽ có những nghệ sĩ số biết biên dịch văn hóa, những nhà văn thành thạo ngôn ngữ lập trình, những nhà phát minh công nghệ biết làm thơ, những giám tuyển mơ bằng thuật toán và những nhà dân tộc học hăng say kiến tạo di sản số. Thế hệ sáng tạo trẻ cần mạnh dạn nắm lấy vai trò quan trọng của mình trong tương lai ấy.
PGS. Lim Kok Yoong