Giữ hồn nghề đúc đồng truyền thống

Giữ hồn nghề đúc đồng truyền thống
9 giờ trướcBài gốc
Nghệ nhân ưu tú Dương Ngọc Tiển (bìa phải) cùng tác phẩm tượng của ông trong một lần triển lãm
Làng nghề bên hành trình di sản
Làng đúc đồng Phước Kiều nằm trên đường thiên lý Bắc - Nam, trong lòng Dinh trấn Thanh Chiêm của xứ Đàng Trong từ đầu thế kỷ XVII. Ngày nay, ngôi làng tọa lạc giữa hành trình kết nối hai Di sản Văn hóa Thế giới: Đô thị cổ Hội An và Khu Thánh địa Mỹ Sơn, thuộc thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam.
Hơn 400 năm qua, các thế hệ nghệ nhân Phước Kiều vẫn miệt mài gìn giữ và phát triển nghề đúc đồng truyền thống. Từ những vật phẩm tín ngưỡng như tượng, lư hương, đỉnh, chuông... đến các sản phẩm nhạc cụ - đặc biệt là cồng chiêng đều được chế tác công phu, đạt giá trị cao về mỹ thuật và văn hóa. Trong đó, dòng sản phẩm đặc trưng làm nên thương hiệu Phước Kiều chính là các loại nhạc cụ cồng chiêng – gắn liền với “Không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên” đã được UNESCO công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại.
Theo nghệ nhân ưu tú Dương Ngọc Tiển, từng có một giai đoạn khó khăn khi âm nhạc phương Tây len lỏi khắp nơi, kể cả vùng sâu vùng xa, khiến cồng chiêng dần vắng bóng trong đời sống sinh hoạt và lễ hội của các dân tộc Tây Nguyên. “Nạn chảy máu cồng chiêng” khiến nhiều người không còn sử dụng loại nhạc cụ này, kéo theo sự mai một của các làng nghề liên quan như Phước Kiều.
“Ngọn lửa đam mê không chiến thắng nổi bài toán cơm áo gạo tiền,” ông nói. Nhiều người phải bỏ nghề để mưu sinh, và chàng trai trẻ Dương Ngọc Tiển khi ấy cũng không ngoại lệ.
Nhưng rồi, truyền thống gia đình, lòng tự tôn dân tộc và sự thức tỉnh từ một sự kiện văn hóa đã gọi ông quay lại. Khi biết Bộ Văn hóa - Thể thao và Du lịch (lúc đó là Bộ Văn hóa - Thông tin) đang hoàn tất hồ sơ đệ trình UNESCO công nhận Không gian văn hóa cồng chiêng là di sản của nhân loại, ông bừng lên hy vọng nghề cũ sẽ hồi sinh.
Nghề đúc đồng làng Phước Kiều trãi qua 400 năm thăng trầm
Giữ nghề - giữ hồn làng
Từ khoảnh khắc đó, nghệ nhân Tiển tự nhủ phải làm điều gì đó cho làng nghề. “Phước Kiều đã đúc hàng chục ngàn bộ chiêng, hàng trăm ngàn chiếc chiêng. Những âm thanh ấy đã và đang ngày đêm ngân vang khắp núi rừng Tây Nguyên,” ông chia sẻ.
Với ông, “phần hồn đã được vinh danh thì phần xác cũng phải được chăm chút”. Phần hồn là những sinh hoạt văn hóa, phần xác chính là những nhạc cụ để duy trì nét văn hóa ấy. Nghĩ rằng nếu không có cồng chiêng, các lễ hội truyền thống sẽ không còn nguyên vẹn, ông quyết tâm gắn bó trọn đời với nghề.
Không chỉ đúc cồng chiêng, nghệ nhân Phước Kiều còn có thể "so hàng âm" - điều chỉnh tần số, cao độ để tạo nên dàn cồng chiêng hoàn chỉnh. Đây là kỹ năng đặc biệt đòi hỏi sự tinh tường về thẩm âm và kinh nghiệm chế tác lâu năm. Chính nghệ nhân Tiển đã nghiên cứu, sưu tầm, biên soạn tài liệu dài 45 trang với nhan đề “Sơ lược lịch sử hình thành và phát triển làng nghề đúc đồng Phước Kiều”, trong đó ông chứng minh: Phước Kiều từng cung cấp trên 2/3 số lượng cồng chiêng cho vùng văn hóa Tây Nguyên.
Nhờ những tài liệu ấy, ngành văn hóa các địa phương đã quan tâm hơn đến vai trò của Phước Kiều. Minh chứng rõ nét là qua các hợp đồng đặt hàng trong khuôn khổ “Đề án bảo tồn và phát huy các giá trị của không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên”. Các nghệ nhân làng nghề đã chế tác nhiều bộ chiêng độc đáo, góp phần khẳng định giá trị và nâng tầm di sản dân tộc.
Với nghệ nhân Dương Ngọc Tiển, chặng đường bền bỉ ấy không chỉ mang đến danh hiệu “Nghệ nhân Ưu tú”, mà còn là sự khẳng định một lý tưởng sống giữ lửa cho một nghề, gìn giữ ký ức và bản sắc dân tộc qua từng sản phẩm thủ công.
Tuy vậy, bên cạnh thành công là nhiều trăn trở. Hiện nay, làng nghề chưa có điều kiện đào tạo lớp kế thừa - đặc biệt trong công đoạn chế tác cồng chiêng đòi hỏi kỹ năng cao. Lực lượng nghệ nhân ngày càng ít, tuổi đã cao, trong khi lớp trẻ chưa mấy mặn mà với nghề.
Các nghệ nhân mong muốn được trao tặng một “danh xưng” xứng đáng - như “làng nghề di sản”, “làng nghề tiêu biểu trong bảo tồn văn hóa Tây Nguyên”… để có cơ sở tạo niềm tự hào cho thế hệ sau, và để làng nghề có thể tiếp cận các chính sách hỗ trợ, từng bước hình thành lực lượng kế thừa.
Các nghệ nhân làng nghề Phước Kiều thực hiện các khâu đúc đồng
Một phần hồn cốt văn hóa Việt
Giữ gìn một làng nghề không chỉ là giữ lấy một kế sinh nhai hay một sản phẩm thủ công, mà còn là giữ lấy một phần hồn cốt của dân tộc. Làng đúc đồng Phước Kiều với hơn 400 năm thăng trầm - không chỉ góp phần tạo nên những vật phẩm quý giá, mà còn lưu giữ trong mỗi sản phẩm ấy cả tinh thần, khí chất và chiều sâu văn hóa Việt. Những chiếc chiêng, cồng, chuông… vang vọng từ bàn tay người thợ nơi đây đã trở thành “tiếng nói” của núi rừng Tây Nguyên, của lễ hội dân gian, của tín ngưỡng cộng đồng.
Ngày nay, trong bối cảnh toàn cầu hóa, những giá trị truyền thống càng cần được bảo vệ bằng ý thức, chính sách và tình yêu cụ thể. Không thể chỉ để làng nghề sống lay lắt bằng sự tự lực đơn độc của nghệ nhân. Cần có những hành động thiết thực từ cơ quan quản lý văn hóa, từ chính quyền địa phương và đặc biệt là từ cộng đồng - những người tiêu dùng hiểu giá trị, yêu di sản. Cần xây dựng những chương trình bảo tồn phát triển đúng tầm, những danh xưng xứng đáng, và cả chính sách ưu tiên đào tạo truyền nghề cho thế hệ trẻ.
Bởi một khi những ngọn lửa truyền thống như Phước Kiều được giữ gìn và tiếp nối, thì dòng chảy văn hóa dân tộc mới không bao giờ đứt đoạn. Đó chính là cách để mỗi chúng ta, hôm nay và mai sau, vẫn còn được nghe tiếng đồng ngân vang từ ngàn xưa vọng lại - đầy tự hào, thiêng liêng và sống động trong đời sống hiện đại.
Quảng Thân
Nguồn VHPT : https://vanhoavaphattrien.vn/giu-hon-nghe-duc-dong-truyen-thong-a29108.html