Giữ kỷ cương học đường để bảo vệ quyền của số đông

Giữ kỷ cương học đường để bảo vệ quyền của số đông
5 giờ trướcBài gốc
Để làm rõ hơn vấn đề này, phóng viên đã có cuộc trao đổi với Tiến sĩ, Thượng tá Đào Trung Hiếu, chuyên gia tội phạm học, người có nhiều năm nghiên cứu về hành vi lệch chuẩn và tâm lý giáo dục học đường.
Tiến sĩ Đào Trung Hiếu chia sẻ góc nhìn về tính hợp lý - bất hợp lý của Thông tư 19, so sánh với câu chuyện từng gây tranh cãi “bán dâm 4 lần mới buộc thôi học”, và gợi mở bài học từ kinh nghiệm quốc tế cùng truyền thống đạo học phương Đông cho việc xây dựng kỷ cương học đường ở Việt Nam.
Tiến sĩ, Thượng tá Đào Trung Hiếu, chuyên gia tội phạm học cho rằng, Bộ Giáo dục & Đào tạo nên thiết kế lại công cụ kỷ luật theo hướng “phân tầng vi phạm để có môi trường học đường vừa hiện đại vừa nhân văn.
PV: Thưa Tiến sĩ Đào Trung Hiếu, Thông tư 19/2025/TT-BGDĐT có hiệu lực từ 31/10/2025, chính thức bỏ hình thức kỷ luật đình chỉ học tập, chỉ còn nhắc nhở, phê bình và viết bản tự kiểm điểm. Ông đánh giá thế nào về bước thay đổi này?
TS. Đào Trung Hiếu:
Về mặt ý tưởng, Thông tư 19 thể hiện một nỗ lực đáng ghi nhận của ngành giáo dục nhằm chuyển từ “loại trừ” sang “phục hồi” - điều thế giới đã khuyến khích từ lâu. Tuy nhiên, chúng ta cũng phải thẳng thắn: Việt Nam hiện có gần 17 triệu học sinh phổ thông và mỗi năm ghi nhận hàng nghìn vụ bạo lực học đường có tính chất phức tạp. Ở quy mô toàn cầu, gần một phần ba học sinh 13-15 tuổi từng bị bắt nạt. Nếu bỏ hẳn công cụ đình chỉ mà không thiết kế cơ chế thay thế đủ mạnh, nhà trường sẽ khó bảo vệ quyền được học trong môi trường an toàn của số đông học sinh còn lại. Khi đó, kỷ cương học đường có nguy cơ lung lay, thầy cô lúng túng, còn học sinh ngoan chịu thiệt.
PV: Một số người cho rằng bỏ đình chỉ là nhân văn, bảo đảm quyền học tập. Ông nghĩ như thế nào về lập luận này?
TS. Đào Trung Hiếu:
Tôi cho rằng quyền học tập không thể đứng ngoài nghĩa vụ. Chúng ta từng có bài học với Thông tư 10/2016: quy định sinh viên “hoạt động mại dâm” đến lần thứ tư mới buộc thôi học. Khi đó, dư luận phản ứng dữ dội vì quy định này vừa phản cảm vừa thiếu răn đe - cho phép một hành vi vi phạm chuẩn mực xã hội tới ba lần mà chưa có hậu quả mạnh. Chính sách đó về thực chất đã bị đào thải. Điểm chung giữa hai câu chuyện là tư duy “bẻ mềm” kỷ luật mà chưa tạo ra hệ thống phục hồi đủ mạnh. Nếu không cẩn trọng, Thông tư 19 có thể lặp lại vết xe đổ: nhân văn trên giấy nhưng thiếu tính thực thi.
PV: Vậy theo ông, nguyên tắc của kỷ luật học đường là gì?
TS. Đào Trung Hiếu:
Dưới góc độ tội phạm học, răn đe hiệu quả dựa trên ba yếu tố: chắc chắn bị phát hiện, xử lý công bằng và chế tài tương xứng. Với vi phạm nhẹ, lần đầu, biện pháp nhắc nhở, phê bình, tự kiểm điểm có tác dụng. Nhưng với hành vi nghiêm trọng hoặc tái phạm, chỉ chừng ấy là không đủ. Trẻ vị thành niên dễ thử giới hạn, nên khi không còn “điểm dừng”, tâm lý “nhờn luật” sẽ xuất hiện. Kỷ luật học đường không chỉ bảo vệ thầy cô mà còn bảo vệ chính học sinh ngoan và quyền được học trong môi trường an toàn của các em.
PV: Các nước OECD giải quyết vấn đề này như thế nào?
TS. Đào Trung Hiếu:
Các quốc gia OECD đi theo hướng tinh tế hơn. Họ không coi đình chỉ/đuổi học là “trừng phạt” mà là “biện pháp bảo vệ cuối cùng” với điều kiện rõ ràng. Hoa Kỳ vẫn có đình chỉ (suspension) và đuổi học (expulsion) cho hành vi nghiêm trọng, nhưng song song triển khai các chương trình phục hồi, tư vấn tâm lý, hỗ trợ học tập khi bị đình chỉ. Phần Lan rất ít đình chỉ hay đuổi học, nhưng luật vẫn cho phép “detention” sau giờ học hoặc tạm thời cách ly học sinh vi phạm, kèm quy trình lắng nghe ý kiến học sinh và phụ huynh, cùng một hệ thống tâm lý học đường rất mạnh. Ở Canada, tỉnh bang Ontario có “Safe Schools Act” quy định rõ khi nào bắt buộc đình chỉ hoặc đuổi học, đồng thời cho phép học sinh được tiếp tục học trong môi trường thay thế, có counselling, chương trình phục hồi và kế hoạch quay lại trường. Điểm chung là: mềm phải có cứng song hành, và đầu tư rất mạnh vào nhân lực tâm lý, công tác xã hội học đường.
PV: Từ truyền thống đạo học phương Đông, ông nhìn nhận vấn đề này ra sao?
TS. Đào Trung Hiếu:
Truyền thống giáo dục Á Đông, trong đó có Việt Nam, đặt “tiên học lễ, hậu học văn” làm gốc. Giá trị “tôn sư trọng đạo” từng là “mạng lưới an toàn” giúp người thầy có thẩm quyền đạo đức, còn học trò hiểu tự do đi kèm trách nhiệm. Nếu giáo dục hiện đại chỉ tiếp thu phương pháp phương Tây mà không giữ nền đạo học phương Đông, dễ biến tự do thành tự tiện, nhân văn thành nhân nhượng. Chúng ta cần “Việt hóa” triết lý phục hồi: yêu thương có giới hạn, kỷ luật là “đường biên” giúp nhân cách trưởng thành, không phải “chiếc roi” bóp nghẹt sáng tạo.
PV: Ông có đề xuất gì để Thông tư 19 được hoàn thiện và đi vào cuộc sống?
TS. Đào Trung Hiếu:
Tôi cho rằng Bộ Giáo dục & Đào tạo nên thiết kế lại công cụ kỷ luật theo hướng “phân tầng vi phạm”. Các hành vi nhẹ xử lý bằng nhắc nhở, phê bình, tự kiểm; các hành vi nghiêm trọng phải có công cụ đình chỉ tạm thời hoặc chuyển cơ sở giáo dục đặc biệt kèm lộ trình phục hồi. Cùng với đó, cần đầu tư nhân lực tâm lý - công tác xã hội học đường để hỗ trợ ca khó, không “đổ hết lên vai” giáo viên. Phụ huynh và cộng đồng cần được kéo vào đồng quản lý nội quy, tạo sự đồng thuận xã hội. Và đặc biệt, phải đưa đạo đức - lễ nghĩa trở lại mạch chính khóa để trẻ hiểu tự do phải đi cùng trách nhiệm.
Nếu làm được như vậy, chúng ta sẽ có môi trường học đường vừa hiện đại vừa nhân văn, hòa hợp giữa phương pháp phương Tây và nền đạo học phương Đông. Học sinh được yêu thương nhưng biết trách nhiệm, thầy cô được tôn trọng và được bảo vệ, và kỷ cương trở thành “chân trời” nâng bước tự do chứ không phải “nhà tù” bóp nghẹt sáng tạo. Đây có thể là con đường dài hạn cho giáo dục Việt Nam trong kỷ nguyên hội nhập.
Yên Chi
Nguồn PetroTimes : https://kinhtexaydung.petrotimes.vn/giu-ky-cuong-hoc-duong-de-bao-ve-quyen-cua-so-dong-732758.html